Hóa thân – Tác giả: Franz Kafka

0
3591

Quay lại Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4Kế tiếp

Chương I

-Quảng Cáo-

ột sáng tỉnh giấc sau những giấc mơ xáo động, Gregor Samsa, nằm trên giường, nhận thấy mình đã biến thành một con côn trùng khổng lồ. Anh nằm ngửa trên cái lưng rắn như thể được bọc giáp sắt, và khi dạm nhấc đầu lên, anh nhìn thấy bụng mình khum tròn, nâu bóng, phân chia làm nhiều đốt cong cứng đờ; tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhiều ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vung vẩy bất lực trước mắt anh.

“Mình làm sao thế này?” anh nghĩ thầm. Đây đâu phải chiêm bao. Vẫn là gian phòng yên tĩnh của anh giữa bốn bức tường quen thuộc; một phòng ngủ bình thường trong thế giới loài người, chỉ có điều hơi nhỏ hẹp mà thôi. Bên trên chiếc bàn bày đầy những mẩu vải mẫu đủ loại – Samsa làm nghề chào hàng – vẫn còn treo bức hình mà gần đây anh đã cắt ra từ một tờ họa báo và đem trưng trong một chiếc khung mạ vàng xinh xắn. Trong hình là một người đàn bà đội mũ lông thú, quàng khăn lông thú, ngồi thẳng đơ và phô ra cho khách chiêm ngưỡng một chiếc bao tay lông thú to tướng phủ kín đến tận khuỷu.
 
Rồi Gregor đưa mắt nhìn qua vuông cửa sổ; những giọt mưa lộp độp rơi trên máng xối; và bầu trời âm u vần vũ ngoài kia khơi dậy trong anh một nỗi sầu khắc khoải. “Giá mình được ngủ nán thêm tí nữa cho quên luôn những chuyện vô bổ này đi” anh ngẫm nghĩ, nhưng không sao ngủ được, vì anh vốn quen nằm nghiêng bên phải khi ngủ và trong tình cảnh hiện giờ anh không thể nào trở mình nổi.

 

Tha hồ cho anh ráng hết sức xoay nghiêng sang phải, lần nào anh cũng bật ngửa trở lại. Nhắm nghiền mắt để khỏi nhìn thấy những cặp chân đang vùng vẫy, anh thử đi thử lại cả trăm lần và chỉ bỏ cuộc khi bắt đầu cảm thấy ở mạng sườn một con đau âm ỉ, mơ hồ chưa từng nếm trải.

 

“Lạy Chúa,” anh nghĩ, “mình chọn chi cái nghề quá đỗi nhọc nhằn này! Chạy rông hết ngày này sang ngày khác. Một công việc thật còn khó chịu hơn cả chuyện bán buôn ở cửa hàng và bực mình nhất đời là cứ phải liên tục di chuyển, cứ phải lo lắng chuyện đổi tàu, chuyển ga, ăn uống thất thường, gặp đâu ngủ đấy, lúc nào cũng phải làm quen với những kẻ tình cờ gặp gỡ để rồi không bao giờ thấy mặt lần thứ hai, không bao giờ trở thành bạn hữu thân tình. Quỷ bắt cái nghề này đi!” Anh cảm thấy hơi ngứa ở bụng, vẫn nằm ngửa, anh từ từ nhích lại gần đầu giường để có thể nhấc cao đầu dễ dàng hơn; anh xác định được chỗ ngứa, bao quanh nó là nhiều đốm trắng nho nhỏ mà anh không hiểu là gì. Anh vươn một chân thử chạm vào đó nhưng rụt phắt lại ngay vì sự tiếp xúc ấy khiến toàn thân anh rùng mình ớn lạnh.

 

Anh lại tụt về vị trí ban đầu. “Dậy sớm như thế này làm cho người ta đâm ra đần độn” anh nghĩ thầm. “Con người cần phải ngủ đẫy giấc. Mấy tay chào hàng ở hãng khác thì sống như cung tần mỹ nữ. Chẳng hạn, sau khi mình đã chạy suốt sáng, quay lại khách sạn để ghi sổ các đơn đặt hàng thì mới thấy chúng ngồi vào bàn điểm tâm. Mình mà thử giở cái cung cách như chúng xem? Lão chủ sẽ tống cổ mình ra khỏi hãng ngay lập tức! Nhưng biết đâu điều đó lại tốt cho mình thì sao?

 
Nếu không vì bố mẹ mà chịu nhịn nhục thì mình đã bỏ việc luôn từ lâu rồi, mình sẽ đi thẳng đến chỗ lão chủ, nói toạc vào mặt cho lão biết mình nghĩ gì về lão. Thế thì lão ắt ngã lộn đầu từ trên bàn xuống đất! A, còn cái lối lão ngồi thượng trên bàn giấy mà phán lệnh xuống cho nhân viên cũng thật là dị hợm quá chừng, nhất là khi các nhân viên phải sán lại thật gần lão để trả lời bởi vì ông chủ này lãng tai! Hừ, dù sao cũng còn hy vọng; một khi mình đã dành dụm đủ trả hết món tiền bố mẹ mình thiếu nợ lão ta – chắc cũng phải mất năm, sáu năm nữa – nhất định mình sẽ làm thế. Lúc đó mình sẽ hoàn toàn cắt mọi dây nhợ ràng buộc. Còn bây giờ, ôi chao, mình phải dậy ngay, kẻo trễ chuyến tàu năm giờ”.

 

Anh nhìn chiếc đồng hồ báo thức đang tích tắc trên mặt tủ. “Trời đất ơi!” anh hốt hoảng. Đã sáu giờ rưỡi, và những chiếc kim đồng hồ vẫn lầm lì chuyển động; thậm chí đã gần bảy giờ kém mười lăm rồi chứ có phải sáu rưỡi nữa đâu. Chẳng lẽ đồng hồ không réo chuông ư? Nằm trên giường anh vẫn nhìn rõ chiếc kim báo thức đã được vặn đúng vào số 4 trên mặt đồng hồ: dĩ nhiên là chuông có reo chứ. Đúng, nhưng nếu vậy thì làm sao anh có thể ngủ yên với hồi chuông inh tai nhức óc ấy? Chà, anh nào có được ngủ yên đâu, chỉ là một giấc mơ mệt quá đấy thôi. Còn bây giờ anh phải làm sao đây? Chuyến tàu kế tiếp sẽ khỏi hành lúc bảy giờ; muốn đón kịp chuyến tàu ắt hẳn anh phải vội như điên, thế mà các mẫu hàng chưa được gói ghém còn bản thân anh thì chẳng thấy mình sảng khoái, hoạt bát gì mấy.

 

Và cho dù có đón kịp chuyến tàu, anh cũng không thể nào tránh khỏi lôi thôi với lão chủ, bởi vì tên loong toong ở cửa hàng ắt đã đợi anh đến bằng chuyến tàu năm giờ và từ lâu hẳn là đã báo cho lão chủ biết sự vắng mặt của anh rồi. Cái tên loong toong ngu xuẩn và chán ngắt này là tay sai của lão chủ.

 
À, hay là anh viện cớ ốm đau nhỉ? Không được, đó là một cái cớ phiền toái nhất hạng, lại đáng nghi ngờ nữa vì suốt năm năm làm việc anh chẳng hề đau yếu lấy một ngày. Lão chủ chắc chắn sẽ đích thân đến tận nhà anh cùng với bác sĩ của quỹ bảo hiểm, sẽ trách cứ bố mẹ anh vì thằng con lười biếng, và sẽ cắt đứt mọi lý do bào chữa bằng cách viện đến sự giám định của bác sĩ quỹ bảo hiểm, cha này tất nhiên coi toàn thể nhân loại là những tên lười nhác hoàn toàn khỏe mạnh giở quẻ đổ bệnh mà thôi. Và nếu hắn có nói thế trong trường hợp này thì phỏng có sai gì lắm? Thực tế, Gregor cảm thấy rất khỏe khoắn, chỉ hơi buồn ngủ, cái cơn ngái ngủ ở người ngủ nướng, và thậm chí anh lại còn đói bụng khác thường nữa chứ.

 

Trong lúc tất cả những ý nghĩ đó vùn vụt lướt qua tâm trí mà anh còn phân vân chưa quyết định rời khỏi giường – đồng hồ vừa điểm bảy giờ kém mười lăm – thì có người thận trọng gõ vào cánh cửa phía đầu giường anh nằm.

 

“Gregor ơi,” tiếng mẹ anh gọi, “bảy giờ kém mười lăm rồi con. Hôm nay không đón tàu đi làm sao con?” Giọng nói ấy sao mà dịu dàng quá! Gregor bàng hoàng khi nghe thấy giọng nói của chính anh đang trả lời mẹ, đúng là giọng anh, không lầm vào đâu được, nhưng kèm theo một chuỗi âm the thé léo nhéo ghê rợn, rền rền như một tiếng thầm thì, khiến cho các từ thốt ra chỉ rõ ràng lúc đầu, rồi tiếng đó dâng lên dội lại quanh các từ, phá hủy ý nghĩa của chúng đến mức người nghe không dám chắc là mình có nghe đúng hay không. Gregor đã định trả lời cặn kẽ và giải thích mọi điều nhưng trong hoàn cảnh này anh đành chỉ nói vắn tắt: “Vâng, vâng, thưa mẹ, con dậy ngay đây”. Cánh cửa gỗ chắn giữa mẹ và anh hẳn đã làm cho người bên ngoài không nhận ra sự đổi khác trong giọng anh, bởi vì bà mẹ bằng lòng với lời anh đáp và quay gót bước đi.

 
Tuy nhiên, mẩu đối thoại ngắn ngủi này khiến các thành viên khác trong gia đình biết Gregor vẫn còn ở nhà, một điều bất ngờ đối với họ, bố anh đập nắm tay khe khẽ vào cánh cửa thông sang phòng Gregor: “Gregor! Gregor!” ông gọi. “Con làm sao vậy?” Và sau một chập, ông lại gọi anh lần nữa, giọng trầm đi, có chút chê trách: “Gregor ơi! Gregor!” Tiếng nói nhỏ nhẹ, ảo não của em gái anh cũng đã vang lên sau cánh cửa đối diện: “Anh Gregor? Anh không ốm đấy chứ? Có cần gì không anh?” Anh trả lời chung cho cả hai: “Tôi xong rồi đấy” và cố hết sức phát âm thật rõ ràng, tách biệt từng từ một để giọng nói của mình càng có vẻ bình thường càng tốt. Yên lòng, bố anh trở lại tiếp tục bữa điểm tâm, nhưng cô em gái vẫn thì thào gọi: “Anh Gregor, mở cửa ra đi anh”. Tuy vậy, anh không nghĩ đến chuyện nghe lời cô em, và thầm cảm ơn thói quen thận trọng hình thành qua những chuyến đi chào hàng: ban đêm bao giờ anh cũng khóa kín tất cả các cửa, kể cả ở nhà.

 

Ý đồ trước mắt của anh là làm sao để ngồi dậy êm thấm không bị cản trở, mặc áo quần vào, và quan trọng nhất là phải ăn sáng cái đã rồi sau mới cân nhắc xem cần phải làm những gì khác nữa, bởi vì anh biết rõ nếu nằm trên giường thì những suy tính của mình sẽ chẳng đi đến một kết luận nào khôn ngoan cả. Anh nhớ mình rất hay bị ê ẩm, tê chồn cả người những khi nằm lâu trên giường, có lẽ là do cái tư thế nằm không thoải mái gây ra, nhưng một khi anh đã ngồi dậy thì cảm giác đó hóa ra chỉ là tưởng tượng mà thôi; và anh khao khát mong chờ cho cái ảo tưởng sáng hôm nay sẽ dần dần tan biến đi. Sự thay đổi trong giọng nói của anh chẳng qua chỉ là triệu chứng báo trước một cơn cảm hàn, cái bệnh vặt cố hữu của mấy tay chào hàng, chứ còn nghi ngờ chi nữa.

 

Muốn vứt bỏ tấm chăn bông thật không gì dễ bằng: chỉ cần anh phềnh bụng lên một chút là nó tự động rơi xuống. Những động tác tiếp theo mới khó, nhất là vì thân hình anh đã to bè ra khác thường. Lẽ ra anh cần phải có hai cánh tay với hai bàn tay để chống lên; thế mà thay vào đó anh chỉ có vô số cặp chân nhỏ không ngừng vung vẩy khắp mọi hướng không làm sao điều khiển được. Khi anh cố gắng gập một cẳng chân vào thì tức khắc nó lại tự duỗi thẳng ra; và nếu cuối cùng anh có bắt được nó tuân theo ý anh muốn thì tất cả những cẳng chân khác giãy giụa cuồng loạn hơn khiến anh xao xuyến khó chịu đến cực độ. “Nhưng cứ nằm lì trên giường thì có ích lợi gì đâu?” Gregor tự hỏi.

 

Anh đã ngỡ mình có thể tụt khỏi giường bằng cách trườn phần thân dưới xuống trước, nhưng phần thân dưới ấy – nằm khuất tầm mắt và anh chẳng hề có ý niệm gì về nó – hóa ra lại chuyển động khó khăn quá chừng; nó xê dịch hết sức chậm chạp nên rốt cuộc, bực quá hóa rồ, anh gom hết sức lực, liều mạng lao mình ra. Anh đã nhắm chệch hướng và va đánh rầm vào thành cuối giường đau nhói, do đó anh biết phần thân dưới này hiện có lẽ là vùng nhạy cảm nhất.

 

Anh bèn thận trọng nhích đầu về phía cạnh giường, thử cho phần thân trên nhoài ra trước. Việc này hóa ra lại khá dễ dàng; bất kể tầm vóc đồ sộ, cồng kềnh, cuối cùng thân hình anh cũng từ từ di dịch theo chuyển động của cái đầu. Tuy nhiên, khi đã nhô được đầu qua cạnh giường rồi, anh lại thấy sợ không dám bước xa thêm, vì nếu anh buông mình xuống đất theo lối này thì chỉ có phép mầu mới giúp anh giữ được cái đầu khỏi bị thương tích. Bằng mọi giá, anh không được bất tỉnh, nhất là ngay lúc này; anh thà nằm yên trên giường còn hơn!

 

Nhưng khi đã mất cũng chừng ấy nỗ lực, anh về lại được tư thế ban đầu, với tiếng rên rỉ nhẹ nhõm, và khi nhìn những cẳng chân khẳng khiu của mình vùng vẫy, va đập có vẻ còn loạn xạ hơn mà chẳng tìm ra cách nào để kiềm chế những chuyển động rối rắm, tùy tiện ấy, anh lại tự nhủ: không thể nào cứ nằm mãi trên giường, con đường khôn ngoan nhất là đánh liều mọi thứ để giành lấy tia hy vọng thoi thóp nhất hòng thoát khỏi chiếc giường này. Đồng thời, anh vẫn không quên tự nhắc mình rằng một suy tính càng điềm tĩnh chừng nào càng tốt hơn nhiều những quyết định tuyệt vọng. Anh tập trung hết nhãn lực nhìn ra cửa sổ, nhưng buồn thay, màn sương mù buổi sáng dày đặc ngoài kia, xóa nhòa ngay cả những ngôi nhà bên kia con phố hẹp, chẳng mang đến cho anh chút khích lệ, khuây khỏa nào. “Bảy giờ rồi mà sương mù còn dày đến thế”. Và anh nằm yên một lát, thở nhè nhẹ như mong đợi sự thinh lặng hoàn toàn như vậy biết đâu sẽ làm cho mọi sự trở lại bình thường đúng như trong thực tại.

 

Nhưng rồi anh tự nhủ: “Trước khi đồng hồ điểm bảy giờ mười lăm, mình phải bước ra hẳn khỏi cái giường này, nhất định thế. Vả lại, từ giờ đến lúc đó thế nào cũng có người ở cửa hàng đến tận đây tìm mình vì cửa hàng mở từ trước bảy giờ kia mà”. Và anh bắt đầu dịch người lắc lư toàn thân theo một nhịp điệu đều đặn hòng văng mình ra khỏi giường. Nếu anh làm theo cách đó thì có rơi xuống đất anh vẫn có thể giữ cho đầu khỏi bị thương bằng cách vươn thẳng đầu lên. Lưng anh có vẻ rắn chắc lắm, không lý nào lại đau đớn vì một cú ngã từ trên giường xuống thảm. Băn khoăn lớn nhất của anh là không có cách nào ngăn được tiếng ầm khi rơi phịch xuống, tiếng động ấy có khả năng gây hoang mang, nếu không nói là kinh hoàng, cho những người đang ở phía sau các cánh cửa. Tuy nhiên anh vẫn phải liều thôi.

 

Khi nửa người đã nhô ra ngoài giường – phương pháp mới này giống một trò chơi hơn là một nỗ lực nhọc nhằn vì anh chỉ cần lắc lư qua lại là dễ dàng nhích tấm thân của mình xê dịch theo chiều ngang – anh bỗng nhận ra mọi chuyện sẽ đơn giản biết bao nếu có người giúp mình. Anh nghĩ đến bố mình và con hầu: hai con người mạnh khỏe ấy sẽ thừa sức nâng anh dậy, họ chỉ việc thọc cánh tay xuống dưới cái lưng khum tròn của anh, nhấc anh ra khỏi giường, khom người hạ anh xuống, rồi kiên trì thêm chút nữa giúp anh tự lật úp xuống sàn nhà, nơi mà anh hy vọng những cặp chân của mình sẽ tìm lại được chức năng phù hợp với chúng. Ôi chao, ngay cả khi những cánh cửa kia không khóa chặt, liệu anh có thật sự dám cầu cứu chăng? Dù đã lâm vào tình cảnh khốn khổ, anh vẫn không nén được một nụ cười trước ý nghĩ đó.

 

Anh đã trườn ra xa đến mức không thể nào giữ được thăng bằng nếu như lắc lư thật mạnh, và chẳng mấy chốc anh phải thu hết can đảm để chuẩn bị cho quyết định cuối cùng, vì chỉ năm phút nữa là đến bảy giờ mười lăm… Vừa lúc ấy, tiếng chuông ngoài cửa trước reo vang. “Chắc là người ở cửa hàng tới tìm mình” anh sợ hãi nằm đờ ra trong lúc những cẳng chân nhỏ xíu càng chòi đạp lung tung, cuồng loạn hơn nữa.

 
Ở nhà ngoài vẫn yên lặng như tờ. “Họ sẽ không mở cửa đâu” Gregor tự nhủ, cố bám víu vào hy vọng vu vơ ấy. Nhưng con hầu đã bước thình thịch đi ra mở cửa, như lệ thường. Chỉ cần nghe được tiếng chào đầu tiên của người khách, Gregor đã biết ngay đó là ai – đích thị lão quản lý. Khổ thân tôi, đày đọa chi mà chui vào cái hãng này, sơ sót chút xíu là lập tức bị nghi ngờ tai ác thế đấy! Chẳng lẽ tất cả nhân viên cửa hàng đều rặt một phường vô lại không hơn không kém hay sao, chẳng lẽ trong số đó lại chẳng có lấy một kẻ nào tận tụy, trung thành hay sao, một người mà chỉ mới có ý nghĩ phí phạm dù chỉ một vài giờ của hãng đã bị lương tâm giày vò muốn phát điên và thực sự không làm sao bước được xuống giường? Nếu cần tra vấn thì phái một tên tập sự đến đây cũng được rồi, việc gì mà lão quản lý phải đích thân tim tới chứng tỏ cho cả gia đình, một gia đình vô tội, thấy rằng chỉ có lão mới thừa kinh nghiệm hơn ai hết để điều tra những chuyện đáng ngờ như thế này? Và chính cái bừng bừng từ những ý nghĩ bực dọc ấy – chứ không phải hệ quả của một quyết định – đã thúc Gregor dùng hết sức mạnh bật tung thân xác ra khỏi giường, rơi đánh bịch một cái, song chưa thành tiếng ầm thực sự lớn. Tấm thảm đã phần nào giảm nhẹ cú ngã của anh, tấm lưng anh cũng không quá rắn như anh tưởng nên tiếng động gây ra không quá khiến người ta chú ý. Có điều anh đã nhấc đầu không đủ cẩn thận nên bị va chạm. Đau đớn và bực tức, anh xoay đầu cọ lên mặt thảm.

 

“Có cái gì vừa rơi ở trong kia” tiếng lão quản lý từ căn phòng bên trái. Gregor cố hình dung đến một ngày nào đó lão quản lý cũng gặp chuyện không may như anh hôm nay: điều đó là có thể lắm chứ? Nhưng bỗng, như để đáp lại một cách thô bạo nghi vấn của anh, lão quản nện bước thình thịch ở phòng bên; đôi ủng bằng da thuộc của lão rít lên kèn kẹt. Từ căn phòng phía bên phải, cô em gái thì thào báo tin cho anh: “Anh Gregor ơi, ông quản lý đến nhà ta đó”. “Biết rồi” Gregor lẩm bẩm, anh không dám nói to sợ cô em nghe thấy.

 
“Gregor,” giờ đến lượt bố anh từ căn phòng bên trái gọi sang, “ông quản lý đang ở đây và muốn biết tại sao con không đón chuyến tàu sớm. Bố mẹ chẳng biết phải nói sao đây. Với lại, ông ấy muốn nói chuyện trực tiếp với con. Thôi, mở cửa ra đi, bố xin con. Ông ấy chắc cũng thông cảm với sự bừa bộn trong phòng con”. “Xin chào anh Samsa”, đúng lúc ấy giọng điệu thân thiện của lão quản lý cất lên. “Cháu nó ốm rồi” mẹ anh nói đỡ trong lúc bố anh không ngừng thúc giục anh từ bên kia cánh cửa. “Hãy tin tôi, thưa ông, cháu nó ốm thật mà. Nếu không thì làm sao nó lại nhỡ chuyên tàu được! Thằng con tôi lúc nào cũng chỉ nghĩ đến công việc mà thôi. Thật tình, tôi muốn phát bực lên vì nó, tối nào cũng ru rú trong nhà chẳng chịu đi chơi đâu; ông xem, nó về thành phố cả tuần nay mà chẳng tối nào nó bước chân ra khỏi cửa. Nó cứ ngồi im ở bàn đọc báo chí hay tra cứu mãi mấy cái bảng giờ tàu chạy. Trò tiêu khiển duy nhất của nó là ngồi loay hoay cưa cắt mảnh gỗ vụn. Đấy, nó bỏ hai, ba buổi tối để làm một cái khung ảnh bé bé, xinh ơi là xinh, ông mà nhìn thấy ắt phải kinh ngạc, cái khung ảnh treo trong phòng nó đấy, Gregor mà mở cửa ra là ông sẽ trông thấy ngay. Ôi, nói thật tình, thấy ông đến tôi rất mừng, ông quản lý ạ; nhà chúng tôi ắt chẳng làm sao dỗ được nó mở khóa cửa; nó bướng bỉnh thế đấy; tôi dám chắc cháu đau yếu gì đấy, dù sáng hôm nay cháu nó khẳng định hoàn toàn ngược lại”.
 
“Con sắp ra đây mà” Gregor chậm rãi và thận trọng lên tiếng, không dám nhúc nhích mảy may, e bỏ sót một lời nào của cuộc đối thoại. “Tôi thấy không còn cách giải thích nào khác, thưa bà,” lão quản lý nói, “tôi mong là anh ấy chỉ mệt xoàng thôi. Tuy nhiên, tôi cần nói rằng giới kinh doanh chúng tôi, phải nói là – may thay rủi thay – rất nhiều khi phải dẹp mọi cơn nhức đầu sổ mũi qua loa, bởi vì công việc cần phải có người chăm lo chứ”. Bố Gregor lại gõ cửa phòng, sốt ruột hỏi: “Này, mày có để cho ông quản lý vào không thì bảo?” “Không” Gregor đáp. Tiếp theo lời khước từ ấy, một sự im lặng bối rối bao trùm căn phòng bên trái, và trong căn phòng bên phải, em gái anh bật khóc thổn thức.

 

Sao em gái anh không nhập bọn với những người kia nhỉ? Có lẽ con bé vừa mới rời khỏi giường và thậm chí còn chưa khoác áo xống vào người cũng nên. Hừ, nhưng sao nó lại khóc? Khóc vì anh không chịu dậy và đón lão quản lý vào, vì anh có nguy cơ mất chỗ làm, và vì lão chủ hãng sẽ lại cật vấn bố mẹ anh về những món nợ cũ chăng? Nhưng đó là những điều người ta không cần phải lo lắng trong lúc này. Gregor vẫn ở đây và chẳng hề nghĩ đến chuyện bỏ bê gia đình. Còn bây giờ, ôi, anh đang nằm vật trẽn tấm thảm và nếu có ai biết được tình cảnh của anh lúc này thì không đời nào họ lại thúc bách anh phải ra mở cửa cho lão quản lý. Còn cái chuyện khiếm nhã vặt vãnh này, sau này anh có thể tìm được cách giải thích hợp lý cho mọi người hiểu, đó nhất định không phải là cái cớ để người ta sa thải anh ngay lập tức. Gregor thấy mọi người nên để cho anh được tạm thời yên ổn hơn là phiền nhiễu anh bằng những giọt nước mắt cùng những lời giáo huấn. Nhưng đương nhiên là tất cả bọn họ đều đang hoang mang, bối rối và điều đó đã biện hộ cho thái độ của họ.

 

“Anh Samsa,” lão quản lý cất cao giọng hơn, “anh làm sao thế? Vậy đấy, anh nằm lì trong phòng, khóa chốt cài then hết mọi cửa nẻo, trả lời độc là ‘ừ hử’ hoặc ‘không’, gây cho bố mẹ anh bao lo phiền không cần thiết, và – tiện thể tôi nói qua thôi – đang bỏ bê bổn phận nghề nghiệp một cách kỳ quặc không sao tin nổi. Tôi nói ở đây nhân danh bố mẹ anh và ông chủ, và rất nghiêm chỉnh, tôi yêu cầu anh giải thích ngay và thật cụ thể cho tôi. Anh làm tôi kinh ngạc, kinh ngạc quá đấy! Tôi cứ tưởng anh là người điềm đạm, biết cư xử, thế mà đùng một cái, anh tự chường cái mặt nhục của mình ra. Sáng nay, chính ông chủ đã nói bóng gió với tôi một lời giải thích khả dĩ về sự vắng mặt của anh đấy – ông ta muốn nói đến số tiền mặt đã được ủy thác cho anh gần đây – còn tôi thì suýt nữa đã trịnh trọng đem danh dự mình ra bảo đảm không thể có chuyện như thế. Nhưng bây giờ thì tôi biết anh lì lợm đến mức nào, thật không ngờ, tỏi chẳng còn muốn bênh vực anh một chút nào nữa cả. Mà vị trí của anh trong cái hãng này có phải vững vàng như bàn thạch đâu, còn lâu nhé. Tôi đến đây định nói riêng cho anh biết tất cả chuyện này, nhưng vì anh đang phí phạm thời giờ của tôi một cách vô ích nên tôi thấy chả có lý do gì mà không để bố mẹ anh nghe luôn thể. Thời gian vừa qua, anh làm việc hết sức kém, tất nhiên, chúng tôi thừa nhận thời kỳ này không phải là mùa làm ăn phát đạt, nhưng cũng chẳng làm gì có mùa ngồi chơi xơi nước, không kinh doanh gì hết, anh Samsa ạ, không thể có được”.

 

“Nhưng thưa ông, tôi sẽ mở ngay bây giờ mà” Gregor cuống quýt kêu lên và trong cơn xáo động anh quên hết mọi cái khác. “Một con bệnh nhẹ, một con chóng mặt đã khiến tôi không dậy được. Tôi còn nằm trên giường đây. Nhưng tôi cảm thấy hồi lại rồi. Tôi đang ra khỏi giường đây. Xin khoan cho tôi giây lát nữa thôi! Tôi chưa được khỏe hẳn như tôi tưởng. Nhưng tôi không sao hết, thật đấy. Trời ơi, sao bỗng dưng lại giáng họa cho tôi thế này! Mới đêm hôm qua đấy thôi, tôi còn mạnh khỏe như thường mà, ông cứ hỏi bố mẹ tôi thì rõ. Đúng hơn, tôi đã hơi có linh cảm, hẳn tôi đã bộc lộ một vài dấu hiệu đau bệnh. Sao tôi lại chẳng báo cho cửa hàng biết trước! Nhưng ai mà chẳng cho rằng mình có thể vượt qua một cơn ốm vặt mà không cần phải nằm nhà. Ôi ông ơi, xin ông đừng làm cho bố mẹ tôi kinh hoảng! Những gì ông trách cứ tôi nãy giờ hoàn toàn vô căn cứ; chưa có ai nói gì với tôi về chuyện đó. Có lẽ ông chưa xem đến những đon đặt hàng gần nhất tôi nộp cho ông. Dẫu sao cũng còn chuyến tàu tám giờ, tôi đón tàu vẫn còn kịp mà, tôi đã đỡ nhiều sau mấy tiếng đồng hồ nghỉ ngơi. Ôi, xin đừng vì tôi mà ông phải chần chừ ở đây, thưa ông, tôi sẽ đến hãng làm việc ngay. Xin ông thương tình báo với ông chủ hộ tôi và chuyển giúp lời xúi lỗi của tôi!”

 
Trong khi tuôn hàng tràng lời lẽ lộn xộn mà hầu như không biết mình đang nói gì, anh đã bò đến chiếc tủ một cách dễ dàng, có lẽ là nhờ đà tập cử động chân từ lúc còn nằm trên giường, và bây giờ anh đang cố sức dựa vào tủ để dựng đứng thân hình lên. Anh thật lòng muốn mở cửa, thật lòng muốn lộ diện nói chuyện với lão quản lý, anh háo hức muốn thấy những kẻ đã khăng khăng buộc anh mở cửa sẽ nói sao khi nhìn thấy anh. Nếu họ kinh hoàng thì trách nhiệm sẽ không thuộc về anh nữa, và anh có thể được yên. Còn nếu họ bình tĩnh đón nhận sự việc thì anh cũng chẳng còn gì phải lo lắng và anh thực sự vẫn còn kịp đến ga đón chuyến tàu tám giờ nếu khẩn trương lên. Lúc đầu mặt tủ trơn khiến anh tuột xuống mấy bận song cuối cùng anh vùng hết sức lực đứng thẳng lên được; anh chẳng để ý đến những cơn đau nhói buốt ở phần dưới thân thể mình nữa. Kế đó, anh buông mình dựa vào lưng chiếc ghế tựa gần bên, những cặp chân nhỏ bấu cứng vào thành ghế. Nhờ thế anh tự chủ trở lại và thôi không lên tiếng, vì bây giờ anh có thể lắng nghe lão quản lý đang nói.

 

“Bà có hiểu được một lời nào của anh ta không?” lão ta hỏi mẹ anh, “Chắc chắn anh ta không định giễu cợt chúng ta đấy chứ?” Bà mẹ bật khóc: “Trời ơi, có lẽ nó đang ốm nặng mà chúng ta cứ hành hạ nó mãi. Grete? Grete đâu?” bà thảng thốt gọi cô con gái. “Mẹ gọi gì ạ?” tiếng cô em trả lời từ phòng bên kia. Thế là họ nói với nhau xuyên qua phòng Gregor. “Mày đi gọi bác sĩ ngay đi, con. Anh Gregor ốm nặng rồi. Đi mời bác sĩ nhanh lên. Mày có nghe tiếng anh mày nói vừa rồi không?”

 
“Đó đâu phải tiếng người” lão quản lý nói, giọng nhỏ hẳn bên cạnh giọng the thé của mẹ anh. “Anna! Anna!” bố anh vừa vỗ tay vừa gọi vọng xuống nhà bếp ở cuối hành lang, “Đi gọi thợ khóa ngay!” Anh nghe tiếng chân của hai cô gái chạy băng qua hành lang, tiếng váy sột soạt – sao em gái anh mặc đồ nhanh đến thế nhỉ? – và tiếng cửa trước mở toang. Không có tiếng đóng cửa lại; rõ ràng là họ đã bỏ mặc cửa nẻo mà chạy đi như người ta thường làm khi trong nhà vừa xảy ra tai họa lớn.

 

Nhưng Gregor lúc này đã bình tĩnh hơn nhiều. Ra là thế, người ta không còn hiểu được những lời anh thốt ra nữa, tuy rằng anh vẫn hiểu mình khá rõ ràng, thậm chí còn rõ ràng hơn trước kia, có lẽ đôi tai anh đã dần quen với âm thanh của lời mình nói. Nhưng rốt cuộc, bây giờ, mọi người đã bắt đầu cho rằng anh đang trong tình trạng không bình thường và họ sẵn lòng giúp anh. Cái cách họ tiến hành dứt khoát những biện pháp đầu tiên: cho gọi bác sĩ và thợ khóa khiến anh thấy mình được an ủi, anh thấy mình lại được trở về với đồng loại và anh mong mỏi, cả ở thầy thuốc và thợ khóa, ai cũng được, không cần quá phân biệt, những biện pháp can thiệp hiệu quả và bất ngờ. Để chuẩn bị cho cuộc đối thoại quyết định sắp xảy ra, anh ho mấy tiếng để dọn giọng cho thật rành rõ, đương nhiên anh phải ho thật khẽ bởi vì có lẽ cái âm thanh này quả là chẳng giống tiếng ho của con người chút nào, chính anh giờ cũng không nói chắc được. Cùng lúc đó, gian phòng bên cạnh chìm trong im lặng hoàn toàn. Có lẽ bố mẹ anh cùng lão quản lý đang ngồi ở bàn thầm thì bàn chuyện, mà cũng có thể họ đang gí tai vào cửa phòng anh nghe ngóng.

 
Gregor từ từ đẩy chiếc ghế về phía cửa, rồi buông ghế ra, bấu chặt lấy cánh cửa cho khỏi ngã – phần đệm dưới những cẳng chân khẳng khiu của anh hơi dinh dính – và anh tựa mình vào cửa phòng để nghỉ một lát. Sau đó, anh dùng mồm hì hụi cố xoay chìa khóa trong ổ. Khốn thay, anh nhận ra miệng mình thật sự không còn chiếc răng nào – lấy gì mà kẹp chắc chiếc chìa khóa bây giờ? Bù lại, đôi hàm của anh rất khỏe; nhờ đó anh đã có thể xoay xoay được chiếc chìa trong ổ, bất chấp việc đôi hàm anh đang bị tổn thương ở đâu đó, vì từ trong mồm anh đã ứa ra một chất lỏng màu nâu, trào giàn giụa trên chiếc chìa khóa rồi nhỏ tong tong xuống sàn. “Này, nghe này,” tiếng lão quản lý thốt lên ở phía cửa bên kia, “anh ta đang vặn chìa khóa kìa”. Đó là một lời khích lệ lớn lao đối với Gregor, nhưng đáng lẽ tất cả bọn họ nên hò reo cổ vũ anh mới phải chứ. Bố mẹ anh lẽ ra cũng phải động viên: “Cố lên, Gregor, cố lên đi con, bám chặt vào, đừng buông ổ khóa ra!” Và với niềm tin là tất cả đang chăm chú theo dõi mọi nỗ lực của mình, Gregor liều mạng, gom hết sức lực nghiến chặt đôi hàm vào chiếc chìa khóa. Theo chiều xoay của chiếc chìa khóa, anh xoay mình vòng quanh ổ khóa, toàn thân chỉ níu vào bằng cái mồm, đẩy chìa khóa tới theo thao tác cần thiết rồi lại kéo nó xuống bằng toàn bộ trọng lượng cơ thể. Rốt cuộc ổ khóa nhượng bộ đánh “tách” một cái làm Gregor giật thót! Thở phào một tiếng nhẹ người, anh tự nhủ: “Thế là ta không cần tới bác thợ khóa nữa” và anh tì đầu lên tay nắm cửa để mở rộng cửa phòng ra.

 

Vì anh phải kéo cánh cửa vào trong nên những người đứng ngoài vẫn chưa nhìn thấy anh khi cửa đã thực sự rộng mở. Anh phải nhích từ từ vòng qua cánh cửa gỗ, rất thận trọng để khỏi té bật ngửa ngay trên ngưỡng cửa. Công việc gian nan này không cho phép anh có thời gian quan sát mọi điều khác và anh còn đang làm thế thì bỗng nghe tiếng lão quản lý rú lên “Ối!” – nghe như tiếng gió gào – bây giờ anh đã nhìn thấy lão ta, đứng gần cửa nhất, một bàn tay đưa lên bụm chặt lấy cái miệng há hốc và lão đang lùi lại, chậm chạp, như bị đẩy liên tục bởi một lực vô hình nào đó. Mẹ anh – mặc dầu có mặt lão quản lý, vẫn để tóc xõa tung, rối bời – mới đầu siết chặt bàn tay vào nhau, bối rối nhìn bố anh, rồi dợm bước về phía Gregor và ngã quỵ xuống sàn trên lớp váy xống xòe rộng, đầu cúi gục xuống ngực. Bố anh, mặt mày đầy vẻ hung tợn, nắm tay lại như muốn tống Gregor lộn nhào trở lại vào phòng, rồi ông bần thần nhìn quanh và đưa hai tay lên bưng mặt khóc, lồng ngực rộng phập phồng theo từng tiếng nấc.

 

regor không bước ra phòng khách mà chỉ tựa vào phía sau phần cánh cửa còn chốt cứng, nên thân hình anh chỉ lộ ra ngoài một nửa, và cái đầu bên trên ngoẹo qua để nhìn mọi người. Trời đã sáng hơn; anh có thể nhìn rõ sang phía bên kia đường, một phần của tòa nhà đối diện – một bệnh viện – với những ô cửa sổ đâm ra khỏi mặt tiền đều tăm tắp; trời vẫn còn mưa, nhưng lưa thưa, thấy rõ từng giọt lớn rơi lộp độp xuống đất. Những đĩa thức ăn bày la liệt trên bàn, vì điểm tâm là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày đối với bố Gregor – đó là khoảng thời gian mà ông có thể nấn ná hàng giờ liền để đọc đủ loại báo chí. Trên bức tường ngay trước mặt Gregor vẫn treo bức ảnh anh đã chụp lúc còn là thiếu úy trong quân ngũ, tay chống trên đốc kiếm, nụ cười ngang tàng trên môi, đòi gọi mọi người kính nể bộ quân phục và tác phong chiến binh của mình. Cánh cửa thông ra hành lang để ngỏ cho thấy cửa trước nhà cũng mở toang, thấy cả đầu cầu thang dẫn xuống dưới.

 

Biết chắc mình là kẻ duy nhất còn giữ được chút bình tĩnh, Gregor nói: “Này nhé, để tôi thay áo quần luôn, gói ghém mẫu hàng rồi lên đường ngay. Liệu ông, ông có để cho tôi đi không? Ông thấy đấy, ông quản lý, tôi đâu có ngoan cố, tôi muốn làm việc mà; đi chào hàng là một công việc cực nhọc nhất, nhưng tôi không thể sống thiếu nó. Ông đi đâu thế, ông quản lý ơi? Đến văn phòng ư? Sao ạ? Liệu ông có tường trình trung thực chuyện này không? Con người ta có thể tạm thời bị tàn phế, nhưng đó chính là lúc cần nhớ lại trước kia người ấy đã làm việc đắc lực ra sao, cần tin rằng sau đó, khi hết bệnh, người ấy nhất định sẽ càng cần cù và chuyên tâm hơn trước. Ông biết rõ tôi cúc cung tận tụy phục vụ ông chủ như thế nào rồi. Ngoài ra tôi còn phải phụng dưỡng bố mẹ và nuôi nấng đứa em gái. Tôi đang gặp khó khăn lớn, nhưng rồi tôi sẽ vượt qua. Bấy nhiêu cũng đủ gay rồi, xin ông đừng làm tôi khổ thêm. Ở hãng, xin ông bênh vực tôi, ông nhé. Tôi biết ở đó dân chào hàng không được ưa. Người ta cứ tưỏng bọn tôi hốt bạc và chỉ vui chơi đú đởn mà thôi! Một định kiến phổ biến không sao thay đổi được. Nhưng thưa ông, ông thì chắc am hiểu vấn đề này han những người khác trong ban quản trị, vâng, xin phép được nói riêng với ông, ông còn am hiểu hơn cả chính ông chủ nữa đấy: là chủ hãng, ông ta dễ bị những nhận định thiếu sót của nhân viên làm cho lung lạc. Nhưng ông thì thừa biết là cánh chào hàng cả năm trời vắng mặt ở sở làm, rất dễ trở thành nạn nhân của những chuyện ngồi lê đôi mách, vận rủi và những lời than phiền vô căn cứ mà họ có hề hay biết chi đâu, trừ lúc họ trở về, kiệt sức sau những chuyến giao dịch, và bấy giờ mới đích thân phải gánh chịu hết những hậu quả tai hại chẳng biết bắt nguồn từ đâu ra. Ông quản lý ơi, xin ông đừng bỏ đi mà không nói một lời với tôi để chứng tỏ ông nghĩ rằng tôi có lý, trong một chừng mực nào đó, phải không ông?”

 

Nhưng, ngay khi Gregor vừa thốt ra mấy lời đầu tiên, lão quản lý đã quay gót, mắt trừng trừng ngoái nhìn anh qua cái bả vai cứ giật thon thót, đôi môi hé mở. Và suốt trong lúc Gregor nói, lão ta chẳng hề đứng yên lấy một phút mà cứ len lén nhích dần từng tí ra cửa, mắt vẫn dán chặt vào Gregor như đang tuân theo một mệnh lệnh bí mật nào đó cấm lão rời khỏi phòng.

 

Lão đã tới hành lang và nhảy bước cuối cùng ra khỏi phòng khách đột ngột đến mức người ta tưởng đâu gót chân lão vừa bị bỏng. Ra đến đầu hành lang, lão giơ thẳng cánh tay phải về hướng cầu thang tựa hồ một sức mạnh siêu nhiên đang chờ sẵn ở đó để cứu vớt lão.

 

Gregor thấy nhất thiết không thể để lão quản lý bỏ đi trong tâm trạng như thế nếu không muốn địa vị của mình trong hãng bị đe dọa đến cực độ. Bố mẹ anh đâu có hiểu rõ sự tình; năm tháng trôi qua, họ cứ đinh ninh rằng tương lai Gregor đã được đảm bảo suốt đời ở hãng buôn anh đang làm việc; vả lại, họ quá bận tâm với những lo toan trước mắt nên chẳng còn tâm trí nào mà tiên liệu chuyện mai sau.

 

Nhưng Gregor đã lường trước mọi điều. Phải cầm chân lão quản lý lại, phải vỗ về lão, thuyết phục lão và cuối cùng phải tranh thủ được lão; toàn bộ tương lai của Gregor cùng gia đình đều tùy thuộc vào đó! Giá mà có em gái anh ở đây! Cô ấy ít ra còn sáng suốt, cô ấy đã bật khóc khi Gregor còn nằm ngửa im lìm trên giường. Và lão quản lý, vốn mê gái, hẳn sẽ để cô dắt mũi; cô ắt đã đóng cửa ngăn lão lại và trấn an cho lão bót kinh hoảng. Nhưng cô lại chẳng có mặt trong lúc này và Gregor phải tự mình xử lý tình huống. Thế là Gregor buông cánh cửa, dẫn mình qua khoang cửa mở, chẳng nghĩ đến chuyên anh vẫn chưa rõ khả năng di chuyển hiện thời của mình ra sao, thậm chí cũng chẳng nghĩ là rất có thể vẫn chẳng ai hiểu nổi những lời anh nói; anh dợm bước về phía lão quản lý đang cuống quýt bấu chặt cả hai tay vào lan can trên cầu thang. Nhưng ngay khi còn đang sờ soạng tìm điểm tựa thì anh đã lại đổ kềnh trên cả mớ chân cẳng chi chít, miệng thốt lên một tiếng kêu khẽ; vừa ngã sấp xuống là Gregor thấy thoải mái liền – cảm giác dễ chịu đầu tiên anh thụ hưởng từ sáng đến giờ; anh vui mừng nhận thấy những cặp chân trụ vững vàng, hoàn toàn tuân theo ý anh; thậm chí chúng cùng ráng sức chở anh tiến theo bất kỳ hướng nào anh muốn; và Gregor sẵn sàng túi rằng mọi nỗi khổ của anh cuối cùng cũng sắp vơi nhẹ đi. Nhưng cùng lúc anh thấy mình nằm bò trên sàn cách mẹ không xa – thực tế là ngay trước mặt bà thân hình đung đưa cố nén niềm háo hức muốn di chuyển thì bà mẹ, tưởng đã lịm hoàn toàn, bỗng vùng đứng phắt dậy, vươn thẳng bàn tay xòe ra rú lên: “Cứu tôi với, lạy Chúa!” Bà cúi đầu như thể muốn nhìn rõ Gregor hơn nhưng chân cứ bước lùi mãi về phía sau. Quên rằng sau lưng là chiếc bàn đã bày biện đâu ra đấy, mẹ anh hấp tấp ngồi phịch lên như kẻ đãng trí, dường như không hề hay biết rằng chiếc bình lớn đựng đầy cà phê phía sau đã bị hất đổ, cà phê chảy ròng ròng xuống tấm thảm.

 

“Mẹ ơi, mẹ ơi,” Gregor vừa khe khẽ gọi vừa ngước nhìn bà. Trong giây lát lão quản lý hoàn toàn mất hết cảm giác, nhưng khi trông thấy dòng cà phê chảy, lão không sao ngăn nổi mình tọp tọp mấy ngụm không khí, khiến bà mẹ lại rú lên lần nữa, rời bàn chạy ào đi, và ngã vào vòng tay bố anh vừa hối hả lao tới đỡ. Nhưng Gregor chẳng có thì giờ bận tâm đến bố mẹ; lão quản lý đã bắt đầu xuống cầu thang; tì cằm trên thành lan can, lão ngoái nhìn lại lần cuối. Gregor nhảy vọt tới để bảo đảm đuổi kịp lão ta nhưng lão quản lý hẳn đã đoán được ý định của anh, vì bất thình lình lão nhảy ào xuống mấy bậc thang liền và biến mất, để lại một tiếng thét vang dội khắp thang lầu.

 

Rủi thay, bố Gregor, trước đó tương đối giữ được bình tĩnh, giờ bỗng đâm ra bối rối trước màn bỏ chạy của lão quản lý, bởi vì đáng ra phải chạy theo lão, hay ít nhất cũng đừng cản trở Gregor đuổi theo lão, thì ông lại quơ tay phải tóm lấy cây gậy mà lão quản lý bỏ quên trên ghế, cùng với mũ và áo khoác, tay trái vớ một tờ báo khổ lớn trên bàn ăn và vừa giậm chân vừa khua khoắng cả gậy lẫn tờ báo xua Gregor về lại phòng. Gregor nài nỉ thế nào cũng vô ích, vả chăng bố anh cũng chẳng hiểu anh muốn gì; anh càng cúi đầu nhẫn nhục chừng nào thì bố anh lại càng nện chân xuống sàn ầm ĩ hơn nữa. Ở đầu kia căn phòng, bà mẹ đã mở toang một ô cửa sổ bất kể tiết trời giá lạnh và bà vùi mặt vào hai bàn tay, vươn người ra ngoài. Một con gió mạnh từ ngoài đường lùa vào cầu thang, những tấm rèm cửa sổ bay tung, mấy tờ báo trên bàn lật phật, và vài trang báo bị bung ra rơi xuống sàn.

 
Không chút thương tình, bố Gregor vừa xua anh về phòng vừa kêu rít lên “Xéo đi! Xéo đi!” như một kẻ man rợ. Nhưng Gregor vẫn chưa quen với cách bước lùi; đi giật ngược như thế này hết sức chậm chạp. Giá như được phép xoay mình lại, anh có thể phóng ngay về phòng, song anh sợ việc xoay trở chậm chạp sẽ khiến bố anh càng nổi điên và bất cứ lúc nào cây gậy trong tay ông cũng có thể giáng cho anh một đòn trí mạng vào lưng hay vào đầu. Nhưng cuối cùng anh bắt buộc phải quay mình lại chứ không còn cách nào khác, bởi vì anh kinh hoàng nhận ra rằng khi đi thụt lùi thì ngay cả phương hướng anh cũng không thể điều khiển như ý mình muốn; và thế là ngoái đầu ra sau, luôn luôn lo lắng để mắt dò chừng mọi cử chỉ của ông bố, anh bắt đầu xoay mình càng nhanh càng tốt, nhưng thực tế lại rất chậm. Có lẽ bố anh cũng thấy rõ thiện chí của anh, vì ông không can thiệp gì lúc anh xoay mình mà ngược lại, ông đứng ngoài xa đôi lúc đưa đầu gậy giúp anh thực hiện thao tác. Giá chỉ cần ông ấy đừng rú rít khó chịu như thế! Những tiếng ấy làm anh mất bình tĩnh hoàn toàn. Anh đã quay gần trọn vòng thì tiếng rít của bố lại khiến anh quẫn trí đến mức lại xoay lệch hướng.
 
Tuy nhiên, khi cái đầu của anh cuối cùng cũng may mắn quay đúng ngay ngưỡng cửa thì anh lại thấy thân mình quá đỗi kềnh càng không sao qua được khoang cửa mở. Bố anh trong tâm trạng khi ấy đương nhiên không thể nào bình tâm nghĩ ra việc mở nốt cánh cửa bên kia cho Gregor có đủ chỗ bò vào. Ông chỉ một mực nghĩ đến chuyện xua Gregor bò vào trong phòng nhanh chừng nào hay chừng ấy. Ông ắt không chịu để yên cho Gregor chậm chạp xoay xở cho thân xác anh dựng đứng lên và thận trọng lách nghiêng qua khung cửa.
 
Ngược lại, lúc này ông còn kêu rú ầm ĩ hơn trước để thúc giục Gregor tiến tới làm như chẳng có chướng ngại nào cản trở anh vậy; đối với Gregor thì dù sao cái tiếng ồn sau lưng anh không còn đơn thuần là tiếng nói của một người cha; thật sự giờ thì không đùa được nữa và Gregor dấn mình vào khuôn cửa – thôi thì muốn ra sao thì ra. Một bên mình anh dụng lên, thân hình anh tạo thành một góc nghiêng trong khung cửa, mạng sườn trầy xước, những vết ươn ướt kinh rợn làm hoen ố cánh cửa trắng, anh bị kẹt cứng ngay sau đó, bất lực không thể nào nhúc nhích một li, những cẳng chân phía bên kia chổng lên chới với, run rẩy trong không khí, những cẳng chân ở phía bên này bị đè cứng xuống sàn đau điếng, chính khi ấy, bố anh từ đằng sau thúc mạnh một cú vào lưng anh, đó đúng là một cú đẩy giải thoát thực sự! Và anh bay vọt vào tận giữa phòng, máu me đầm đìa, cây gậy của bố anh đẩy sầm cửa phòng lại rồi cuối cùng là im lặng.

Quay lại Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4Kế tiếp

guest
(*) Thông tin bắt buộc phải điền
(*) Thông tin bắt buộc phải điền
0 BÌNH LUẬN
Phản hồi
Xem tất cả bình luận