Quay lại Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4Kế tiếp
Chương II
ãi đến chập tối Gregor mới tỉnh giấc, một hồi thiếp đi mê mệt giống một cơn ngất hơn là một giấc ngủ. Kể cả không có ai quấy rầy anh, thì chỉ một lúc nữa thôi anh vẫn tự động thức dậy, vì cảm thấy đã nghỉ đủ và ngủ được một giấc khá ngon lành; nhưng anh có cảm giác dường như tiếng chân bước nhẹ của ai đó và tiếng đóng khẽ của cánh cửa thông ra hành lang đã đánh thức anh. Ánh đèn điện ngoài đường hắt vào phòng anh những vệt sáng rải rác trên trần nhà và trên bề mặt của các đồ vật, nhưng phía dưới, nơi anh nằm, thì tối mò. Chậm chạp, vụng về, anh thử dò đường bằng cách vươn mấy sợi râu dài trên đầu, một bộ phận mới trên thân mà bây giờ anh mới đánh giá được tác dụng; anh lết ra cửa để xem những gì đã diễn ra ngoài kia. Anh cảm thấy mạn sườn bên trái như có một vết sẹo dài, căng căng đến khó chịu, và anh đâm ra khập khiễng trên hai hàng chân. Thêm vào đó, một chiếc chân nhỏ đã bị thương tổn trầm trọng trong quá trình xảy ra những sự kiện lúc sáng – náo loạn thế mà chỉ hư có một cẳng thì kể cũng là kỳ diệu – và nó kéo lết vô dụng đằng sau anh.
Ra đến cửa anh mới khám phá ra điều gì đã lôi cuốn anh thực sự: mùi thức ăn. Bởi vì nằm ngay ngưỡng cửa là một tô sữa tươi trên mặt nổi lềnh bềnh những mẩu bánh mì trắng xé nhỏ. Suýt nữa anh đã cười phá lên vui sướng vì hiện giờ anh còn đói hơn cả lúc sáng, và anh vục mặt vào tô sữa, sữa ngập tận chân mày. Nhưng anh liền rụt đầu ra ngay, đầy thất vọng; không những mạn sườn bên trái đau nhức làm anh khó nuốt – anh chỉ có thể ăn bằng cách hít khìn khịt và toàn thân cùng rung động – mà anh còn chán món sữa này, tuy rằng sữa vốn là thức uống ưa thích nhất của anh và chắc chắn là vì thế nên em gái anh mới đặt sẵn ở đó cho anh mà chẳng nói với anh câu nào. Gần như kinh tởm, anh bỏ mặc tô sữa đầy nguyên, bò trở vào giữa phòng.
Qua khe cửa, anh nhìn thấy ngọn đèn khí đốt trong phòng khách đã được thắp sáng nhưng khác với mọi khi bố anh thường có thói quen lớn giọng đọc báo cho mẹ và đôi khi cho cả em gái anh nghe nữa, lúc này phòng khách im lặng như tờ. Chà, có lẽ bố anh dạo này đã bỏ thói quen đọc báo lớn tiếng rồi, cái thói quen mà em anh thường nhắc tới những khi trò chuyện hay thư từ với anh. Nhưng khắp bốn bề cũng đều tĩnh lặng như vậy, mặc dù căn nhà này rõ ràng không phải trống vắng người ở! Gregor nghĩ thầm: “Nhà ta sao lại sống trầm lặng quá vậy” và khi đứng bất động đăm đăm nhìn vào bóng tối, anh cảm thấy tự hào hết sức bởi vì nhờ anh mà bố mẹ cùng em gái mới có thể sống bình yên trong một căn hộ xinh xắn như thế này. Nhưng nếu tất cả sự an bình này, sự tiện nghi này, sự thỏa mãn này rồi phải chấm dứt trong nỗi kinh hoàng thì sao? Để tránh chìm ngập trong những ý nghĩ u ám đó, Gregor cố tìm quên bằng cách bò ngang dọc khắp phòng.
Một lần trong buổi tối lê thê này, một bên cánh cửa hông mở hé ra rồi vội vã đóng ập lại ngay; sau đó, cánh bên kia cũng thế; rõ ràng có ai đó định bước vào nhưng rồi đổi ý. Gregor bấy giờ đứng phục ngay trước cửa thông sang phòng khách, quyết tâm thuyết phục người khách lưỡng lự đó bước vào, hay ít ra phải biết được kẻ đó là ai; nhưng cửa không xịch mở ra nữa và anh vô vọng đợi chờ. Lúc sáng sớm, khi mọi cửa nẻo đều khóa kỹ thì ai cũng đòi vào, còn bây giờ khi anh đã tự mở một bên cánh cửa và rõ ràng bên kia cũng đã có người mở khóa từ lúc chưa tối thì chẳng một ai bước vô; thậm chí chùm chìa khóa còn cắm nguyên trong ổ, phía bên kia cánh cửa.
Mãi đến thật khuya ngọn đèn ngoài phòng khách mới tắt đi, và Gregor dễ dàng đoán ra bố mẹ anh và cô em cùng ngồi thức ở đó cho đến giờ, bởi vì anh nghe rõ tiếng chân rón rén của cả ba đang rút lui về phòng riêng. Nhất định là từ giờ đến sáng sẽ chẳng có ai vào thăm anh đâu; như vậy sẽ có nhiều thời gian cho anh tha hồ mà suy ngẫm làm sao để thu xếp cuộc đời mới của mình. Nhưng căn phòng trống trải, cao vòi vọi mà anh đang nằm bẹp trên sàn lại khiến lòng anh tràn đầy một nỗi sợ hãi không sao giải thích nổi – vì đây chính là phòng riêng của anh suốt năm năm qua và trong một hành động gần như vô ý thức, đồng thời không khỏi hơi xấu hổ, anh bò vội xuống gầm ghế xô pha, ở đó anh lập tức cảm thấy thoải mái mặc dầu lưng hơi bị ép và đầu không cất lên được, chỉ tiếc là thân hình anh quá kềnh càng không lọt hết vào gầm chiếc tràng kỷ này.
Anh nằm đó suốt đêm, chập chờn ngủ, chốc chốc lại choàng tỉnh vì cơn đói không ngừng quấy quả, có lúc lại trằn trọc lo âu và phác họa những hy vọng vu vơ mà tất cả đều dẫn đến một kết luận: trong tình hình hiện tại, anh phải nằm phục chờ cơ hội đồng thời nhẫn nại và hết sức ý tứ để giúp gia đình chịu đựng những điều bất tiện mà cái thân xác mới của anh tất sẽ gây ra.
Từ hôm ấy, hằng ngày, Gregor được cho ăn theo lối đó, một lần vào mờ sáng khi bố mẹ anh và con hầu còn ngủ, và lần thứ hai sau khi mọi người đã xong bữa trưa, bởi vì khi đó bố mẹ anh đã về phòng nghỉ và em gái anh có thể sai con hầu ra phố chạy việc vặt này nọ. Dĩ nhiên đâu phải là họ muốn bỏ đói anh nhưng có lẽ họ chỉ cần nghe nói anh vẫn được ăn là đủ chứ biết thêm về chuyện đó thì chịu không nổi, cũng có thể là cô em gái muốn giảm bót lo âu cho bố mẹ được chừng nào hay chừng nấy, vì cứ như hiện nay họ cũng đủ khổ sở rồi.
Gregor không cách nào khám phá được gia đình anh đã viện cớ gì để tống khứ ông bác sĩ lẫn bác thợ khóa vào buổi sáng đầu tiên; bởi lẽ không ai hiểu được lời anh thành thử mọi người, kể cả em gái anh, đều không ngờ rằng anh vẫn hiểu tiếng người, cho nên mỗi lần em anh bước vào phòng, anh phải cam lòng nghe cô thỉnh thoảng thốt ra một tiếng thở dài hay một lời khẩn cầu với các vị thánh, về sau, khi cô đã hơi quen với tình trạng này – đương nhiên làm sao cô hoàn toàn quen hẳn được, – đôi lúc cô lại buột miệng nhận xét vài câu hàm ý tốt đẹp hay có thể diễn dịch theo nghĩa tốt đẹp. Chẳng hạn, cô thường nói “A, anh ấy thích bữa ăn hôm nay” những khi Gregor ngốn sạch thức ăn, hoặc cô lại rầu rĩ bảo “Đấy, lại còn nguyên như cũ rồi” những khi anh không ăn – điều này ngày càng xảy ra thường xuyên hơn.
Nhưng dù không hề thu nhập được tin tức trực tiếp nào, Gregor vẫn nghe lỏm được nhiều chuyện qua những lời bàn tán vọng ra từ các phòng bên cạnh, và hễ nghe thấy tiếng nói là anh bò ngay tới trước cánh cửa căn phòng có người trò chuyện, nép sát thân mình vào đấy lắng nghe. Đặc biệt trong mấy ngày đầu, không câu chuyện nào không nhắc đến anh, dù đều là những lời bóng gió. Suốt hai ngày, cứ đến bữa ăn gia đình lại hội ý về cách cư xử từ rày về sau; và thậm chí vấn đề đó vẫn được bàn cãi cả trong thời gian giữa hai bữa ăn, vì bao giờ cũng có ít nhất hai người ở nhà – hẳn không ai muốn ở một mình trong căn hộ và cũng không đời nào nghĩ đến chuyện bỏ mặc nhà cửa trống không. Hơn nữa, ngay hôm đầu tiên, bà bếp trong nhà anh quỳ mọp trước mặt mẹ Gregor van vỉ xin thôi việc – không rõ bà ta biết gì về chuyện xáo trộn của gia đình anh và biết đến mức nào – rồi mười lăm phút sau đó, khi ra đi, bà bếp nước mắt rưng rưng cảm ơn như thể chuyện nghỉ việc này là một ân huệ tột cùng mà bà đã đưọc chiếu cố trong ngôi nhà này, và bà ta cũng thề thốt, dù không ai thúc bách, sẽ không hé răng cho bất kỳ ai hay biết chuyện gì đã xảy đến với gia đình anh.
Thế là em gái Gregor phải lo luôn chuyện bếp núc để giúp đỡ mẹ, nhưng thật tình, chuyện nấu nướng không đáng bận tâm vì họ nào có ăn uống chi nhiều. Lúc nào Gregor cũng nghe thấy người này phí hơi thúc giục người kia ăn mà chẳng được trả lời gì khác ngoài câu “Cảm ơn, tôi đủ rồi”, hay một câu tương tự. Có lẽ họ cũng không uống gì ấy chứ. Em gái anh cứ hỏi đi hỏi lại bố anh xem ông có thích dùng ít bia chăng và ân cần đề nghị đích thân cô sẽ đi kiếm, rồi khi không thấy bố anh nói năng gì, cô lại ngỏ ý sẽ nhờ ông gác cổng đi mua hộ để bố anh khỏi cảm thấy ngại, nhưng đến lúc bố anh thốt ra một tiếng “Không” cộc lốc thì không ai nói gì về chuyện ấy nữa.
Ngay trong hôm đầu tiên, bố Gregor đã phơi bày cho mẹ và em gái anh biết tình trạng tài chính của gia đình cùng những triển vọng trước mắt. Thỉnh thoảng ông lại rời bàn đi lấy những chứng từ sổ sách trong chiếc rương sắt nhỏ ông còn vớt vát giữ lại được từ hồi chuyện làm ăn của ông đổ bể năm năm về trước. Anh nghe rõ tiếng ông mở chiếc ổ khóa phức tạp, lôi giấy tờ ra loạt soạt, rồi đóng nắp rương lại. Những lời giãi bày ấy của bố anh, ở khía cạnh nào đó, là tin mừng đầu tiên Gregor nghe được từ lúc anh sống biệt lập trong phòng mình. Lâu nay anh cứ ngỡ bố mình đã hoàn toàn khánh kiệt, ông cụ cũng không hề nói gì ngược lại và anh, hẳn nhiên, không đời nào hỏi thẳng bố về chuyện này. Do đó, ao ước duy nhất của Gregor là làm hết sức mình để giúp gia đình nhanh chóng lãng quên cái tai họa đã phá tan tành công việc kinh doanh của ông bố và ném tất cả vào cảnh tuyệt vọng hoàn toàn. Cho nên anh đã lao đầu vào công việc với một nhiệt tình phi thường và gần như ngay sau đó, từ một nhân viên quèn, anh đã trở thành một người chào hàng mà đồng lương của nghề này, tất nhiên, khác hẳn – và thành công của anh tức khắc biến thành những đồng tiền tròn trĩnh, xinh xắn mà anh đặt trên bàn trước ánh mắt kinh ngạc và vui sướng của gia đình. Đúng là thời tươi đẹp, nhưng cái thời tươi đẹp đó chẳng bao giờ lặp lại, nếu có thì cũng mất hết hào quang ban đầu, cho dù sau đó Gregor kiếm được nhiều tiền đến mức anh đủ khả năng cung ứng mọi chi phí của cả nhà và đã thực sự làm thế. Mọi người dần quen với điều này một cách đương nhiên, cả gia đình lẫn chính bản thân Gregor. Những đồng tiền được đón nhận với lòng biết ơn và được ban phát với niềm vui sướng, nhưng nào còn nữa cái tình cảm nồng nhiệt đặc biệt trào dâng như hồi đầu.
Đó là những ý nghĩ giờ đây đã trở nên hoàn toàn hão huyền trong cái cảnh ngộ khi anh dựng đứng thân hình bấu chặt vào cánh cửa nghe ngóng. Có lúc chán ngấy, anh chẳng buồn nghe nữa và uể oải rũ đầu va vào cửa, nhưng luôn luôn phải định thần lại ngay, vì chỉ một tiếng động nhỏ như vậy thôi, phòng bên cũng nghe thấy và lập tức họ sẽ im bặt. Rồi bố anh ắt hẳn sẽ quay sang hướng phòng anh, hỏi bâng quơ: “Nó đang làm cái gì thế nhỉ?”, chỉ đến khi đó, cuộc đàm luận vừa bị gián đoạn mới dần dần được tiếp nối.
Gregor bây giờ đã biết được mọi tin tức anh mong muốn – vì bố anh thường nhắc đi nhắc lại những lời giảng giải của ông, phần vì ông từ lâu đã bỏ bẵng không đụng đến những vấn đề ấy, phần vì mẹ anh đâu phải bao giờ cũng hiểu ra ngay được – anh đã biết được rằng một số tiền đầu tư nào đó, đành rằng rất nhỏ, còn sót lại sau cuộc phá sản và thậm chí còn tăng lên đôi chút nhờ phần lãi trong thời gian qua không bị động tới. Ngoài ra, số tiền Gregor mang về mỗi tháng – anh chỉ giữ lại chút ít cho riêng mình – gia đình anh chưa lần nào tiêu dùng hết và đến nay đã tích lũy thành một vốn liếng nho nhỏ. Đằng sau cánh cửa, Gregor hí hửng gật gật đầu, vui mừng trước sự tằn tiện và lo xa của ông bố, một điều anh không ngờ tới. Đáng lý ra với món tiền phụ trội này, anh đã có thể trả bớt một phần số nợ bố anh còn thiếu lão chủ, và sẽ tới gần cái ngày anh có thể bỏ cái nghề này, nhưng bây giờ rõ ràng anh thấy bố mình sử dụng tiền như thế hóa ra lại hay hơn.
Tuy nhiên, số vốn này không cách gì đủ cho gia đình anh sống lâu dài chỉ nhờ lợi tức của nó; có lẽ chỉ một năm hay cùng lắm là hai năm rồi họ sẽ phải lấy vốn gốc ra mà tiêu dùng, thế là hết. Thế nên số tiền này chắc chắn gia đình anh không được đụng tới mà phải để dành nhỡ khi cùng kiệt; phải kiếm những món khác mà chỉ tiêu hằng ngày. Bố anh hiện giờ tuy còn khỏe mạnh thật nhưng tuổi đã cao, suốt năm năm qua ông không làm một công việc nào hết và không thể trông chờ ông làm lụng gì nhiều; trong năm năm ấy – những năm nhàn hạ đầu tiên trong cuộc đời lao lực nhưng không thành đạt của ông – bố anh đã phát phì và trở nên chậm chạp. Còn bà mẹ của Gregor thì làm sao có thể kiếm sống với chứng hen suyễn hành ngay cả khi đi lại trong phòng và cứ cách một hôm lại bắt bà nằm dài trên tràng kỷ mà thở hổn hển bên khung cửa sổ mở rộng? Và em gái anh sẽ phải làm lụng kiếm miếng ăn sao trong khi nó chỉ mới mười bảy tuổi đầu, khờ khạo như con nít, cả đời chỉ biết ăn sung mặc sướng, ngủ cho đẫy giấc, phụ giúp việc nhà, thỉnh thoảng ra phố giải trí, và mê nhất là chơi vĩ cầm?
Giá như anh có thể nói chuyện với em gái và cảm ơn cô vì những gì cô đã buộc phải làm cho anh, có lẽ anh sẽ dễ dàng chịu đựng sự săn sóc của cô hơn; nhưng thực tế những hành động ân cần đó lại đè nặng lòng anh. Rõ ràng em gái anh đã hết sức cố gắng làm nhẹ bớt nỗi đau đớn của tình trạng hiện nay, và đương nhiên, theo thời gian, cô mỗi lúc một thành công hơn; song thời gian cũng làm cho Gregor sáng mắt ra hơn. Ngay cả cái lối cô ấy bước vào phòng cũng làm anh khổ sở. Vừa vào phòng là cô chạy ào đến cửa sổ, thậm chí cũng chẳng khép cửa phòng lại nữa tuy rằng cô vẫn cẩn thận không để cho những người ở nhà ngoài thấy bóng Gregor, rồi như thể sắp chết ngạt đến nơi, những ngón tay hấp tấp của cô giật hai cánh cửa sổ mở toang, rồi đứng đó một hồi đón luồng gió ùa vào, ngay cả những khi trời rét buốt cắt da, và hít một hơi dài. Sự nháo nhác ầm ĩ như vậy của cô mỗi ngày hai lần làm Gregor kinh động; những lúc cô vào, anh cứ nằm run dưới gầm ghế xô pha, thừa biết cô chắc chắn sẽ cố làm cho anh không sợ hãi, nếu như cô có đủ sức chịu đựng sự hiện diện của anh mà không cần mở cửa sổ.
Có một lần, khoảng một tháng sau khi Gregor biến hình (lúc này cô chẳng còn lý do gì để giật mình trước hình dạng của anh), cô vào phòng anh sớm hơn lệ thường một chút và thấy anh đang đăm đăm nhìn ra cửa sổ, hoàn toàn bất động, cho nên trông rất ma quái. Nếu cô em gái không vào thì Gregor cũng chẳng ngạc nhiên đâu, bởi khi anh còn đứng đấy thì cô đâu thể mở toang cửa sổ ngay lập tức đưọc; nhưng thay vì nhẹ nhàng rút lui, cô liền lùi phắt ra và đóng sầm cửa lại; người nào lạ ắt sẽ tưởng là anh đang nằm mai phục trong phòng chờ em mình vào là cắn ngay đấy! Tất nhiên là anh lập tức trốn xuống gầm ghế, song anh phải đợi đến tận trưa mới thấy cô em quay lại và cô dường như bất an hơn mọi khi. Điều đó làm anh vỡ lẽ ra rằng hình hài của anh đối với cô em vẫn còn kinh tởm đến mức nào, cô sẽ không bao giờ chịu đựng nổi bộ dạng của anh và cô chắc phải vận hết ý chí mới không bỏ chạy khi trông thấy dù chỉ một phần thân xác anh thò ra từ dưới gầm tràng kỷ. Để tránh cho cô em khỏi nỗi khổ đó, một hôm, anh cõng tấm chăn trên lưng đến chiếc tràng kỷ – anh phải hì hục mất bốn tiếng đồng hồ mới xong – và trải chăn lên đó sao cho kín hết thân hình anh để cô em dù có khom người xuống cũng không nhìn thấy. Nếu em anh coi việc làm này là không cần thiết, nhất định, cô sẽ cuốn tấm chăn cất đi bởi vì phủ chăn giấu mình như thế hoàn toàn không đem lại cho Gregor một chút thoải mái nào, nhưng em anh vẫn để nguyên nó ở đó. Và khi Gregor cẩn thận dùng đầu hé một góc chăn lên ngó ra, thậm chí anh tường như bắt gặp trong mắt cô một cái nhìn đầy hàm ơn.
Trong hai tuần đầu, bố mẹ Gregor chưa dám mạnh dạn quyết định vào phòng thăm anh, và anh thường nghe họ khen ngợi những việc làm của em gái anh, mặc dù trước kia họ vẫn hay mắng mỏ cô là một đứa con vô tích sự. Nhưng bây giờ, cả hai ông bà thường hay đứng chờ ngoài cửa trong khi em gái anh dọn dẹp phòng, và vừa bước ra là cô phải cho họ biết chính xác tình trạng ở trong phòng, Gregor đã ăn gì, lần này anh cư xử ra sao, và bệnh tình của anh có thuyên giảm chút nào không. Vả lại, chẳng bao lâu sau mẹ anh đã bắt đầu muốn vào thăm nhưng ông bố và cô em liền can ngăn bà với những lý lẽ mà Gregor rất chăm chú lắng nghe và hoàn toàn tán thành. Nhưng sau đó, bố cùng em anh phải dùng đến sức mạnh để ngăn cản bà mẹ, và khi bà gào lên: “Hãy để tôi vào với Gregor, đứa con bất hạnh của tôi! Các người không hiểu rằng tôi phải vào thăm nó sao?” thì Gregor nghĩ rằng chắc phải để cho bà vào thôi, dĩ nhiên không phải vào thăm hằng ngày mà có thể là mỗi tuần một lần, nói cho cùng, bà hiểu sự đời hơn em gái anh nhiều, cô em dẫu sao vẫn chỉ là một đứa trẻ dù cô vẫn cố gắng hết sức mình và có lẽ chỉ vì tính nông nổi của trẻ con nên mới nhận lãnh cái nhiệm vụ khó khăn này.
Niềm ao ước được gặp mẹ của Gregor đã nhanh chóng được đáp ứng. Ban ngày, anh không muốn ló dạng ở cửa sổ, cũng chỉ vì bố mẹ, nhưng trên cái sàn nhà vẻn vẹn mấy mét vuông này anh không thể bò được bao xa, mà nằm yên suốt đêm thì anh chẳng chịu nổi, còn ăn uống thì anh cũng chẳng thiết nữa, cho nên anh đâm ra có thói quen bò ngoằn ngoèo trên sàn nhà và bốn bức tường để giải khuây. Anh thích nhất là treo mình lơ lửng trên trần, như thế dễ chịu hơn nằm trên sàn nhiều; anh có thể hít thở thoải mái hơn, thân hình anh dong đưa, lắc lư nhẹ nhàng; và trong màn tiêu khiển gần như đạt tới cực lạc nhờ tư thế treo mình này anh ngạc nhiên thấy mình có thể buông ra và rơi phịch xuống sàn. Nhưng giờ đây, anh đã điều khiển được cơ thể của mình khéo léo hơn trước, và ngay cả một cái té nặng như vậy cũng không làm anh hề hấn gì. Em gái anh tức thời để ý ngay cú trò tiêu khiển mới mà Gregor đã tự tìm ra cho mình – chất nhầy ở đầu các cẳng chân của anh để lại dấu vết bất kỳ nơi nào anh bò đến – và cô nảy ra ý định tạo cho anh một chỗ thật rộng để bò ngang dọc khắp nơi và dọn sạch những đồ đạc cản trở anh, đặc biệt là chiếc tủ ngăn kéo cùng cái bàn giấy. Nhưng chỉ mình cô thì làm sao xoay xở cho xong; cô không dám nhờ bố giúp một tay; còn con hầu, một đứa con gái mười sáu tuổi đã có gan tiếp tục ở lại sau khi bà bếp ra đi, thì cô không thể nhờ vả gì được – nó đã xin một ân huệ đặc biệt là được phép luôn luôn khóa cửa nhà bếp và chỉ mở ra khi có lệnh đặc biệt; cho nên chỉ còn cách là nhờ mẹ phụ giúp vào giờ bố đi vắng. Và bà già hăm hở đến ngay, nhưng những lời reo vui háo hức của bà tắt ngấm khi đến trước cửa phòng Gregor. Em gái anh đương nhiên phải vào trước để thu xếp mọi thứ cho tươm tất trước khi đưa mẹ vào. Gregor cuống quýt kéo tấm chăn xuống thấp hơn rồi xô lệch, vò nhàu tấm chăn như thể nó đã vô tình bị ném bừa lên ghế xô pha. Và lần này, anh không hé mắt nhìn ra, anh từ bỏ niềm hân hoan được nhìn thấy mẹ và chỉ mừng vui rằng bà thực sự đã bước vào. “Vào đi, mẹ, mình không thấy anh ấy đâu”, tiếng em gái anh vang lên, chắc hẳn cô đang nắm tay mẹ dẫn vào. Rồi Gregor nghe tiếng hai người phụ nữ yếu đuối hì hục xê dịch chiếc tủ cũ kỹ, nặng nề, và em gái anh đang giành phần lớn của công việc nặng nhọc này về mình, bỏ ngoài tai lời bà mẹ cằn nhằn sợ cô làm quá sức.
Khốn thay, em gái anh lại có ý kiến ngược lại; trong việc của Gregor, cô đã quen tự coi mình là người am hiểu trước mặt bố mẹ – thật ra thì không phải không có lý do – cho nên lời khuyên giải của bà mẹ lúc này càng làm cô thêm quyết tâm thu dọn hết, không chỉ chiếc tủ và bàn giấy như ý định ban đầu mà còn dời luôn tất cả đồ đạc khác, ngoại trừ chiếc ghế xô pha không thể thiếu trong phòng. Quyết định đó dĩ nhiên không nảy sinh đơn thuần từ tính bướng bỉnh trẻ con hay lòng tự tin gần đây đã phát triển hết sức bất ngờ; thực tế thì cô cũng nhận thấy rằng Gregor cần nhiều khoảng trống để bò loanh quanh, mặt khác, theo như cô thấy cho đến nay, anh không hề sử dụng tới các đồ đạc này. Một nhân tố khác có thể đóng vai trò ở đây là sự hăng hái của các thiếu nữ ở tuổi cô: sự hăng hái luôn luôn kiếm tìm mọi cơ hội để bung ra và bây giờ đang khơi gợi trong lòng Grete cái mong mỏi cường điệu thêm tính kinh rợn trong tình trạng hiện thời của anh cô, để cô có thể làm được nhiều hơn cho anh. Trong cái căn phòng mà Gregor một mình thống ngự những bức tường trống không thì ngoài cô ra không một ai có can đảm bước chân vào.