Địa ngục qua cái nhìn Duyên Khởi

0
2301

Thời thơ ấu, Thiền sư Bạch Ẩn rất sợ địa ngục

-Quảng Cáo-

Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại một ngôi chùa thuộc địa phương mà gia đình Thiền sư Bạch Ẩn đang ở.

Khi nghe diễn tả thật chi tiết về những nỗi thống khổ trong tám tầng địa ngục, Bạch Ẩn rúng động, cả người run bắn. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, cậu bé không sao ngủ được và khóc cả đêm.

Bà mẹ vẫn có thói quen bắt người hầu gái phải đun nước thật sôi để tắm cho con trai. Cô phải châm củi liên tục cho đến khi lò lửa cháy bùng… Bạch Ẩn đã sợ hãi và thét lớn khi thấy những vệt lửa bắn ra từ chậu tắm. “Con không thể nào đi vào bồn tắm mà không sợ hãi khi nghĩ đến lúc con phải vào trong hỏa ngục, bị đốt cháy trong đó. Con phải làm sao bây giờ? Có cách nào tránh được điều đó không? Hay cứ phải ngồi chờ cho tới khi cái chết đến? Con muốn biết con phải làm gì? Mẹ phải cứu con” [1]

Để làm yên lòng con trai, bà mẹ đã dạy Bạch Ẩn kính lễ vị thần của đền Kitano và tụng bộ kinh Tenjin. Bạch Ẩn thực hành rất nghiêm túc. Đó là bước đầu vào đạo của Đại sư Bạch Ẩn.

Một lần, có sự cố nhỏ xảy ra trong gia đình, ông đã cầu cứu đến vị thần của đền Kitano, nhưng không giải quyết được việc gì. Ông nhận ra con đường mẹ dạy không thể cứu ông thoát khỏi địa ngục. Ông chuyển qua tụng kinh Phổ Môn và hành Thiền, là con đường mà theo Đại sư, mới có thể giúp ông thoát khỏi địa ngục đang chờ đón mình phía trước.

Địa ngục có hay không?

Địa ngục chẳng phải có, chẳng phải không

Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Đức Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tỳ kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay sau khi chết. Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bản Nguyện, Quỉ vương Vô Độc cũng trả lời Thánh nữ dòng Bà-la-môn là “Thật có địa ngục”. 

Tùy theo tướng trạng hành hình mà địa ngục có vô số danh xưng khác nhau và nằm trong núi Thiết Vi. Lớn thì có 18 chỗ. Kế thì có 500 chỗ. Kế nữa có đến nghìn trăm chỗ với nhiều danh hiệu khác nhau: “Có địa ngục tên là Dương Đồng, có địa ngục tên là Bảo Trụ, có địa ngục tên là Lưu Hỏa… Có vô số các tên gọi như thế”. “Thưa nhân giả, hoặc có địa ngục kéo lưỡi người tội ra mà cho trâu cày trên đó, hoặc có địa ngục moi tim người tội ra cho quỉ Dạ Xoa ăn. Hoặc có địa ngục vạc dầu sôi sùng sục… ” [2]

Dù Kinh luận đã xác nhận có địa ngục, với chỗ nơi, tên gọi, tướng trạng và số nhiều vô kể như thế nhưng điều đó không có nghĩa là thật có một địa ngục với bản chất thường hằng là có tội nhân hay không có tội nhân thì địa ngục vẫn tồn tại. Không phải.

Địa ngục là pháp Duyên khởi. Nó chịu sự chi phối của lý Nhân duyên, nên nó phụ thuộc vào chúng sinh gây tạo ác nghiệp. Có chúng sinh gây tạo cái nhân địa ngục mới có địa ngục xuất hiện. Không có chúng sinh gây tạo “ác nghiệp” thì “địa ngục” hoàn không.

Bồ-tát Long Thọ nói: “Pháp do nhân duyên sinh. Ta nói tức là không” [3]. Không, là không có tự tánh. Lìa tự tánh tức vô sinh [4]. Do đó, tuy thấy địa ngục có hình có tướng như thế mà tánh vốn thường không.

Cho nên, tuy Kinh Luận xác định địa ngục là có, nhưng là cái có trong vòng nhân duyên, nhân quả chứ không có thực tánh. Địa ngục chỉ có với những kẻ đã gây tạo cái nhân địa ngục. Không có với những ai không gây tạo cái nhân địa ngục. Hoặc đã gây tạo mà biết chuyển tâm sám hối tu hành thì địa ngục liền không.

Không tạo nhân địa ngục mà vẫn thấy địa ngục hoặc vào được địa ngục là do “sức oai thần của nguyện lực” của Chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng. Nếu không phải sức oai thần của “nguyện lực” thì cần phải do “nghiệp lực” của kẻ đã gây ra việc ác. Ngoài hai điều ấy ra, ắt không bao giờ đến được địa ngục.

Hỏi: Nói “vô sinh” là nghĩa lý gì?

Đáp: Vô sinh, nghĩa là tất cả các pháp đều từ “tâm sinh”, không có thứ gì có cội gốc của riêng nó. Ngày nay các nhà vật lý hiện đại đang đi tìm hạt cơ bản, là đi tìm cái gốc tối mà từ đó phát sinh vạn vật v.v… Bảo đảm, không thể nào tìm ra cái gọi là hạt cơ bản đó. Vì tất cả đều là “duyên sinh”, đều là sở hiện của tự tâm, chỉ do bất giác mà có. Tâm sinh thì tất cả pháp sinh. Tâm diệt thì tất cả pháp diệt [6]. Như ngủ rồi mộng, tuy thấy mọi thứ có hình, có tướng, có khổ, có vui, có tới, có lui mà chỉ là mộng tưởng, do sức ngủ vô minh mà có, không có chất thật. Ngay khi mộng thấy như có mà tánh vẫn thường không. Tỉnh mộng liền dứt.

Nói theo tinh thần của Kinh Trung Luận thì địa ngục chẳng phải có, chẳng phải không. Chẳng phải có, vì tự thể vốn không. Chẳng phải không, vì nhân duyên hội ngộ y như là có. Thể của vọng vốn rỗng, thành có mà chẳng phải có. Không mà chẳng phải không, vì mê tình chưa dứt nên không thể nói không [7].

Nhân duyên khiến chúng sinh chiêu cảm cảnh giới địa ngục

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện nêu ra những hành nghiệp khiến chúng sinh chiêu cảm quả báo địa ngục gồm: Ngũ Nghịch và Thập Ác.

Ngũ Nghịch:

1/ Có tâm ác làm thân Phật chảy máu.

2/ Khinh chê ngôi Tam Bảo.

3/ Khinh hủy Kinh Điển.

4/ Giết hại cha mẹ. Bất hiếu với cha mẹ.

5/ Ô phạm đến Ngôi Tam Bảo và Ngôi Già lam: 

  • Xâm tổn tài vật của Chùa.
  • Ô phạm đến Tăng Ni. 
  • Làm sự dâm loạn trong chốn Chùa chiền thanh tịnh.
  • Giả làm Tăng Ni, lạm dụng của cải Thường Trụ, khinh hủy trái phạm giới luật, gạt gẫm hàng bạch y, tạo nhiều tội ác.

Thập Ác: các trọng tội cực ác phát sinh từ Thân, Khẩu, Ý như sát sinh, dâm dục, trộm cướp,…

Trong bài thơ nói về địa ngục của thi hào Dante, phần địa ngục cấp một của ông dành cho những người không chịu rửa tội và những kẻ vô thần mà có đức hạnh [8]. Có lẽ do hai chữ “đức hạnh” mà địa ngục cấp một của ông chưa có sự hành hình. Do thiếu đức tin nên coi như ở ngưỡng cửa địa ngục.

Theo triết lý Phật Giáo, người không quy y Tam Bảo mà sinh hoạt đời thường của họ phù hợp với năm giới của người Phật tử tại gia thì cuộc sống của họ vẫn khả quan. Vì mọi sự theo luật Nhân quả mà vận hành. Họ vẫn hưởng được sự tốt đẹp do những “thiện nhân” mình đã gây tạo. Chỉ khi kẻ nào khởi tâm khinh chê, hủy báng Tam Bảo mới đọa vào địa ngục.

Vì sao khởi tâm khinh chê Tam Bảo thì bị đọa địa ngục? Vì Phật Pháp dạy con người hoàn thiện bản thân để có đời sống hiện tại an vui và quả báo tốt đẹp ở đời sống kế tiếp. Phật Pháp cũng dạy chúng sinh giải thoát mọi khổ đau, nhận ra chân lý. Khi con người thiếu Đức tin và phỉ báng những điều đó thì chính là đang chống lại thiện nghiệp của mình và người. Đó là cái nhân khiến những kẻ khinh hủy Tam Bảo đọa vào ác đạo.

Trong địa ngục có phần dành cho cả những người tu hành nhưng không phải là Tăng bảo mà là “Tăng giả danh”. Nói “giả”, khiến con người liên tưởng đến những thứ mà chất lượng không đi đôi với tên gọi hay quảng cáo trên bao bì.

Để phân biệt giữa “Tăng bảo” và “người đời”, ngoài hình tướng được trang bị để phân biệt (Tăng chỉ mặc y áo hạn chế trong vài màu và đầu cạo trọc) thì giới luật, định lực cũng như trí tuệ của chư vị chính là thứ khiến chư vị được gọi là Tăng bảo.

“Tăng giả danh”, nghĩa là áo quần trang bị bên ngoài thì có mà Giới-Định-Tuệ bên trong thì không. Kinh Pháp Diệt Tận nói:

“Về sau, khi Pháp của Ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này, tà đạo nổi lên rất thịnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của Ta. Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sinh, tham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau … Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia làm Tăng Ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật, tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật Pháp suy vi chính là do bọn này.

Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết. Nếu có đọc tụng Kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải. Tuy thế, bề ngoài cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô, để hy vọng sự cúng dường.

Các Tỳ kheo ma này sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam Bảo”.

Kinh Địa Tạng không nói đến Định – Tuệ mà chỉ nói đến Giới luật, vì giới luật là nền tảng thấp nhất mà một Tăng bảo cần phải có để việc tự lợi và lợi tha được thành công. Không có phần căn bản này làm nền tảng thì không có gì để phân biệt với người đời. Không khác người đời thì không thể gọi là “Tăng bảo”, cũng không thể đòi hỏi sự kính trọng của người đời.

Là Tăng bảo, đáng nhẽ phải là người điều tiết được thiện đạo cho chúng sinh, đây lại khiến chúng sinh sa vào đường dữ thì đọa địa ngục là tất nhiên. Chưa kể một khi đã giả danh thì không thể tránh được các tội khác như lạm dụng của Thường Trụ, ô phạm Tăng Ni v.v… Tội lỗi rất nhiều. Tránh sao được cái quả đọa vào ác đạo.

Làm cho thân Phật ra máu thì Đức Phật hiện nay đã không còn. Nhưng Kinh Đại Tập nói: “Trong đời mạt-Pháp, có những vua, quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm khinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng với làm cho thân Phật ra máu…”.

Trong các bài Kinh thuộc hệ A-hàm, nếu phạm vào ngũ giới của người tại gia là không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, thì tùy mức độ và tính chất sai phạm mà đọa vào ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh [9].

Thệ nguyện sâu dày của Bồ-tát Địa Tạng

Nhắc đến địa ngục không thể không nhắc đến Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bởi những thệ nguyện độ sinh của Ngài đều dành cho chúng sinh ở chốn tội khổ.

Sinh trong thân tướng Trưởng giả: Bồ-tát Địa Tạng, trong tiền kiếp khi còn là một vị trưởng giả, đã gặp được Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Thấy thân tướng Đức Phật rực rỡ trang nghiêm, Ngài đã hỏi về nhân duyên để có được thân tướng đó.

Khi nghe Đức Phật trả lời: “Cần phải trải qua một thời gian lâu xa độ thoát các chúng sinh khốn khổ”, Ngài đã lập thệ nguyện: “Từ nay cho đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sinh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện, làm cho chúng sinh đó được giải thoát hết cả rồi, tự thân mới chứng thành Phật đạo”.

Sinh trong thân tướng vua chúa: Đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, khi chưa xuất gia, Ngài là vua một nước nhỏ, kết bạn với các vua nước lân cận, đồng thực hành Thập thiện nghiệp, làm lợi ích cho chúng sinh. Do dân trong nước đa phần đều tạo ác nghiệp, nên vị vua đó phát nguyện sớm thành Phật, là Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai.

Vị vua phát nguyện: “Nếu tôi trước chẳng độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui, chứng quả Bồ-đề, thời tôi nguyện chưa thành Phật”. Vị vua ấy là tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng.  

Sinh trong thân tướng Thánh nữ: Thời Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, có người con gái dòng Bà-la-môn, nhiều đời chứa phước sâu dày, thường có chư Thiên theo hộ vệ, nhưng người mẹ lại mê tín tà đạo, thường khinh bỉ ngôi Tam Bảo. Dù Thánh nữ khuyên nhủ mẹ bao nhiêu, bà này vẫn theo nếp cũ mà đi. Chẳng bao lâu sau bà ta chết, thần thức chiêu cảm cái quả địa ngục Vô gián.

Thánh nữ biết cái nhân mẹ gây tạo không thoát khỏi địa ngục nên hết lòng chiêm bái tôn tượng Đức Giác Hoa Như Lai, mong biết mẹ thác sinh vào chốn nào. Do Thánh nữ tràn đầy lòng hiếu thuận, đức hạnh tu tạo phước lành, cúng dường Chùa tháp và cung kính Đức Giác Hoa Như Lai mà đã giúp mẹ cùng các tội nhân khác được thoát khỏi địa ngục, sinh lên Thiên giới. Do nhân duyên đó mà nàng đã phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sinh nào mắc tội khổ, tôi liền lập ra nhiều phương chước làm cho chúng sinh đó được giải thoát”. Thánh nữ ấy là tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng.  

Sinh trong thân tướng nữ nhi: Thời Đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, có người con gái tên Quang Mục, do duyên lành gặp được một vị La Hán chỉ bày cho phương cách cứu mẹ đang đọa địa ngục do tội ác sát sinh. Do nhân duyên đó nàng đã phát nguyện:

“Nếu thân mẫu tôi thoát khỏi địa ngục khi  tôi mãn mười ba tuổi, không còn bị trọng tội và rơi vào ác đạo nữa thì tôi xin phát nguyện rộng lớn như vầy: Từ nay về sau, đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sinh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả chúng đều thoát khỏi ba ác đạo”. Người con gái hiếu thuận ấy là tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng.  

Nhận sự ủy thác của Như Lai: Sau khi được Đức Phật nói cho biết về quá khứ độ sinh nhọc nhằn và lâu dài của Đức Phật, Bồ-tát Địa Tạng được giao phó trách nhiệm độ sinh. Ngài đã rơi lệ mà thưa:

“Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ Đức Thế Tôn tiếp dẫn mà có trí tuệ rộng lớn và được thần lực không thể nghĩ bàn. Con đã phân thân hiện ra cùng khắp trăm nghìn muôn ức hằng hà sa thế giới, trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi thân hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến họ qui kính Tam Bảo, khỏi hẳn vòng sinh tử , hưởng vui Niết Bàn. Những chúng sinh nào, đối với Phật Pháp chỉ làm việc lành bằng một sợi lông, giọt nước,… con nguyện độ thoát dần khiến chúng đó được lợi ích lớn”.

Mọi lời nguyện của Ngài đều vì chúng sinh tội khổ mà hiện thân cứu giúp.

Chuyển nghiệp: “Nhân” trong “Duyên” ngoài cần hội đủ

Chư Phật và Bồ-tát luôn thương tưởng đến chúng sinh, luôn muốn cứu giúp chúng sinh thoát khỏi những khổ não ở thế gian, nhưng Chư Phật và Bồ-tát không thể lôi chúng sinh từ bờ khổ qua bờ vui. Bởi ba thứ nghiệp gồm thân, khẩu, ý của chúng sinh là thứ quyết định hạnh phúc hay đau khổ cho chính họ. Cho nên, dù muốn cứu giúp, Chư Vị cũng chỉ là người tạo duyên. Còn nhân phải là của chính chúng sinh đó.

Vì sao phải cần đến “Nhân” trong “Duyên” ngoài như thế? Vì chúng sinh sống trong thế giới mà Nhân duyên – Nhân quả là nguyên lý vận hành chi phối tất cả. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Nếu nhân duyên đầy đủ, nghĩa là tự có cái lực huân tập, lại được cái duyên là nguyện từ bi của Chư Phật và Bồ-tát hộ trì thì hay khởi cái tâm chán khổ, tin có Niết Bàn…”. Phải khởi cái tâm chán khổ thì mới có thể tu tập mà chuyển được khổ.

Chịu tin, chịu tu, dù chỉ là tu phước, thì đó cũng là cái nhân giúp chúng sinh chuyển hóa dần hạnh nghiệp của mình. Cũng nương vào nhân đó của chúng sinh, Bồ-tát mới có thể tạo duyên giúp đỡ: “Đối với Phật Pháp, chỉ làm việc lành bằng một sợi lông, giọt nước,… Con đều độ thoát dần”. Luận Đại Thừa Khởi Tín cũng nói: “Tất cả Chư Phật và Bồ-tát đều nguyện độ thoát hết thảy chúng sinh, tự nhiên huân tập thường hằng chẳng bỏ.…”.

Trợ duyên độ thoát bằng cách nào? Tùy theo thấy, nghe cảm ứng mà hiện thân độ thoát chúng sinh. Hoặc thấy, hoặc nghĩ, hoặc làm quyến thuộc, cha mẹ, người thân, người giúp việc, bạn hữu, oan gia…[10].

Theo đó thì thấy không phải chỉ gieo duyên với chính Tăng bảo, Chùa tháp v.v, chúng sinh mới được độ, mà chỉ với vài thiện nghiệp bình thường đối với một người cơ nhỡ thấp hèn, vẫn có thể là cái duyên đối với Phật Pháp. Bởi Phật Pháp không chỉ có mặt hiển mà còn có mặt ẩn, không chỉ có quyền mà còn có thật v.v…

Vì thế đừng bao giờ ngừng tạo thiện nghiệp dù chỉ là việc rất nhỏ. Bởi có khi đó chính là cái nhân cứu mình thoát khỏi địa ngục trong hiện tại và tương lai.

Đồng thời, con người cũng đừng chủ quan khi gây việc ác dù rất nhỏ vì sự tích lũy các ác nghiệp nhỏ sẽ dần hình thành cái nhân đọa vào 3 ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Có người cho Phật Pháp không thiết thực ở mặt cứu người như một số Tôn Giáo khác, những vị cao tăng ẩn mật tu hành là thiếu tích cực. Đó là vì họ không thấy được mặt “ẩn mật” của Phật Pháp. Kinh Địa Tạng Bản Nguyện nói: “Ta phân ra nhiều thân độ thoát những hạng chúng sinh mỗi mỗi sai khác như thế. Hoặc hiện ra thân trai, hoặc hiện ra thân gái… hoặc hiện ra Thiên đế, hoặc hiện ra Tì kheo, Tì kheo ni …” [11]. Cũng nói: “Bấy giờ những hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng ở các thế giới hiệp chung lại…”.

Muốn phân thân thành vô lượng vô biên thân để độ sinh ở vô lượng vô biên cõi nước, đòi hỏi người tu phải chứng nhập lại được pháp thân của mình. Đó là thứ sẵn đủ trong mỗi chúng sinh, chỉ vì mê mà không dụng được. Muốn chứng nhập được phần pháp thân đó, thiện nghiệp không thể chỉ dừng ở mặt phúc thiện (là thứ mà người đời vẫn cho là rất tích cực đối với cái khổ của tha nhân), mà đòi hỏi hành giả phải biết hướng nội thanh lọc thân tâm, trưởng dưỡng định lực, phát huy Trí Tuệ như nhà thiền hay nói: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự. Bất tùng tha đắc” [12].

Cho nên thứ mình thấy tích cực chưa hẳn đã tích cực, thứ mình thấy tiêu cực chưa hẳn là tiêu cực.

Địa Tạng và Dạ Xoa

Tai ương, bệnh tật, chết chóc, bất hạnh ngày càng thảm khốc và hoành hành ở thế giới này. Nhiều cảnh nhìn vào thấy không khác những gì được diễn tả trong địa ngục. Địa ngục có hay không, thế gian này cũng đã đủ đầy. Đó là do càng ngày con người càng sa nặng vào ác nghiệp, chạy theo những ham muốn dục vọng thấp hèn của bản thân, đánh mất niềm tin đối với nhân quả.

Một cô gái bị tạt acid nói với tôi: “Con nhận ra địa ngục đâu phải chốn nào xa. Tại cái bệnh viện này đã đủ rồi. Ngày nào cũng thấy có người chết, tiếng máy cưa rì rì, tiếng lột da, sự đau đớn, rên la… Trong màu áo trắng thánh thiện của bệnh viện, những con người, có khi chính là Bồ-tát Địa Tạng, xoa dịu nỗi đau cho chúng sinh về cả thân xác lẫn tinh thần. Nhưng cũng chính họ có khi là quỷ Dạ Xoa khiến cho thân tâm bệnh nhân càng thêm bức não, đau đớn. Địa ngục đã có mặt ở thế giới này, đâu chỗ nào xa”.

Không phải chỉ cô ấy mới có cái nhìn như thế. Một số người khác, trong đó có tôi, cũng thấy địa ngục không cần phải về tới núi Thiết Vi mới có. Ngay đây, tại thân tâm này, nếu không thể thoát những bức não khổ đau trong chính mình thì không khác ở chốn địa ngục.

Nói với một người đang bị nạn rằng: “ông phải chịu như thế vì ông đã gây cái nhân như thế” trong khi họ đang quằn quại đau đớn là việc không nên làm, cũng không thể làm với người có từ tâm. Nhưng đó là sự thật mà chúng ta phải nhìn thấy để còn biết mà tránh hầm tránh hố cho đoạn đường hiện tại cũng như tương lai của mình. Không có gì thoát khỏi sự vận hành của Duyên khởi, được triển khai thành Nhân duyênNhân quả.

Đã có quả, tất phải có nhân. Nếu có quả mà không nhân thì rơi vào thuyết Vô nhân của ngoại đạo. Nhân đó chính là những gì mình đã tạo ra trong quá khứ. Nói quá khứ là so với cái quả mà mình đã nhận được trong kiếp này. Nó có thể là từ vô lượng vô số kiếp về trước. Cũng có thể là kiếp vừa rồi. Cũng có thể là ngay trong hiện kiếp này, trước khi quả xảy ra. Vì vậy, nếu có trách thì nên trách mình trước, trách người sau: “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.

Muốn thoát khỏi địa ngục trần gian, cũng phải chuyển tâm trước, cảnh mới chuyển sau. Tâm nếu không chuyển, ba nghiệp nếu không sửa thì đi tới đâu cũng như cú vọ hay quạ đen đổi nơi ở, chẳng thể đổi thay được bao lâu hoàn cảnh xấu ác của mình. 

Qua cái nhìn Duyên khởi, Địa Tạng và Dạ Xoa là những pháp không tánh, chỉ tùy duyên mà hiện khởi. Nguyện của Chư Phật vẫn đó, nhưng hạnh nghiệp của chúng sinh nếu quá ác trược cũng không thể nhận được. Thế giới này vốn là thế giới Hoa Nghiêm của mười phương Chư Phật, chỉ vì ác nghiệp của chúng sinh mà thành cõi Ta-bà với nhiều nẻo luân hồi ngụp lặn khổ đau.

Bát cơm của Thánh Mục Kiền Liên bỗng hóa lửa đỏ chỉ vì mẹ Ngài – bà Thanh Đề khởi tâm ngạ quỉ tham lam. Cho nên, chúng sinh cần gieo các thiện nghiệp để lời nguyện của Bồ-tát được hiện thành và bóng của Dạ xoa mất đi.

Những gì xảy ra trong thế giới này đều có sự tương quan mật thiết với nhau. Kẻ giết người và người bị giết đều có quan hệ nhân duyên từ trước. Xoay vần như vòng bánh xe xoay mãi không dừng.

Nếu không có niềm tin với Nhân Quả, không có Trí Tuệ để phân định Thiện Ác trong đời sống, cũng như không đủ tỉnh táo để ngừng những nghiệp tập của chính mình, thì con người sẽ bị lôi vào cái vòng vô tận trả vay – vay trả giữa giữa chúng sinh với chúng sinh không biết bao giờ mới thôi.

Mới thấy, nếu không có mục đích, sức khỏe, nhẫn lực, trí tuệ, định lực và nhất là tình thương đối với tha nhân, mình rất dễ chạy theo những cái khởi bất thiện mà tạo nghiệp. Khởi thì chỉ một mà nhân duyên để khởi thì vô số. Địa Tạng hay Dạ xoa từ đó mà hiện thành.

Không tánh, nên ngay nơi tướng Dạ xoa, nếu mình có ít nhiều nhẫn lực và sự hiểu biết thì bản thân mình cũng có thể chuyển Dạ xoa thành pháp mầu của mười phương Chư Phật. Trong Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký, Tổ Hiền Thủ nói: “Với Nhất thừa, tam thế gian đều nhập pháp luân. Tất cả ngữ ngôn âm thanh của chúng sinh đều nhập pháp luân”. 

Đề Bà Đạt Đa, trong các bộ Kinh thuộc hệ A-hàm, là ác tri thức. Trong Kinh Pháp Hoa, Đề Bà Đạt Đa trở thành thiện tri thức giúp Đức Phật mau thành đạo. Không có pháp nào không phải là Phật Pháp ở thế gian này. Chỉ là vì căn lực của mình không đủ để nhận ra điều đó.

Nhân duyên giữa mình và người thuận có, nghịch có. Thuận thì mọi thứ vui vẻ, êm xuôi. Nghịch thì trắc trở, ngưng trệ. Với những nghịch duyên, chỉ cần chúng ta tin vào nhân quả, là đã có thể chuyển đi loại tư kiến hướng ngoại phê phán. Thay vì trách cứ và đau khổ, chúng ta sẽ nhận ra mặt pháp vị của nó, giúp định lực và trí tuệ của mình ngày càng tăng trưởng, chuyển hóa được nghiệp tội của mình và người.


CHÚ THÍCH

[1] Bạch Ẩn Huệ Hạc – cuộc đời, ngữ lục, thư pháp, họa phẩm – Thuần Bạch và Ngọc Bảo biên dịch.

[2] Phẩm Danh Hiệu Địa Ngục.

[3] Luận Trung Quán – phẩm Phá Tứ Đế – Bồ-tát Long Thọ tạo.

[4] Lăng Già Tâm Ấn – Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch.

[5] Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện – Phẩm Thần Thông Trên Cung Trời Đao Lợi.

[6] Luận Đại Thừa Khởi Tín.

[7] Nói chung cho tất cả pháp. Không chỉ riêng với địa ngục.

[8] Wikipedia.

[9] Trung Bộ Kinh tập 3. Bài kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt. Việt dịch Hòa Thượng Thích Minh Châu.

[10] Luận Đại Thừa Khởi Tín – Bồ-tát Mã Minh. Dịch và giải Chân Hiền Tâm.

[11] Lời của Đức Phật dạy Bồ-tát Địa Tạng trong Kinh Bồ-tát Địa Tạng Bổn Nguyện. Bản dịch của Hòa Thượng Trí Tịnh.

[12] Lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ.

(Tổng hợp từ các Tài liệu của Thiền Viện Thường Chiếu)

guest
(*) Thông tin bắt buộc phải điền
(*) Thông tin bắt buộc phải điền
0 BÌNH LUẬN
Phản hồi
Xem tất cả bình luận