Cô Phương hết nhìn người anh, lại nhìn sang người em. Cô đoán họ phải là anh em ruột thì mới giống nhau như tạc đến thế. Vả chăng hồi gần đây cô có nghe đến ông Đầu Xứ Anh cũng có một người em đỗ Ðầu Xứ và tài hoa đã làm trội cả một vùng tỉnh Nam. Ðúng là người mua truyện này đây. Chưa biết chuyện ông Đầu Xứ Anh không nộp quyển thi khoa này, cô Phương tự nói với mình: “Huynh đệ đồng khoa! Cải làng Cổ Nguyệt chuyến này tha hồ mà rước sách. Trong hai anh em, chả biết ai sẽ tủ tài, ai cử nhân. Mọi năm hai trường Hà Nội và Nam Định hợp lại, lấy sáu mươi tư cử nhân. Năm nay khoa rốt, nhà nước đặc cách lấy những chín mươi tư cử nhân và cũng như mấy lần thi trước, cứ một cử nhân thì ba tú tài. Lọt sao được tay hai cậu Ðầu Xứ này.” Cô kéo cái ấm giỏ trong bục trong ra, giở nắp ấm thăm cái nòng chiếc ấm sứ, rót hai chén, cố hạ thấp vòi ấm xuống để nước không nổi bọt.
– Mời hai thầy quá bộ vào trong này xơi nước. Nước trà nụ ướp sói vừa pha đấy, nên mới dám mời hai ngài tân khoa.
Cô Phương cười, tự cho câu chúc sớm sủa đó lả có duyên lắm, hẳn là phải hay lắm và anh em ông Đầu Xứ Cổ Nguyệt phải thưởng thức. Thấy họ cứ đứng trân trân ra đấy, cô Phương thu dần nét mặt xởi lởi lại và ngồi ngẫm, càng nhận thấy cái vô duyên và vô lí của câu nói vừa rồi. Ai người ta chưa thi cử được một kì nào mà đã chúc với tụng. Cho đỡ ngượng, cô lại mời:
– Hai thầy xơi chén nước!
Ông Đầu Xứ Em chẳng biết cái gì cả, cầm chén, uống luôn, tưởng hễ cứ vào mua hàng người ta là mình có quyền được xơi nước mời. Khốn nạn, nào mà trước tới giờ anh có bao giờ nói chuyện cho nghe cái đoạn tình duyên thầm kín đã mấy năm nay giữa anh với cô hàng sách đâu mà biết. Ông Ðầu Xứ Em thấy anh còn trùng trình chưa chịu ngồi xuống cầm lấy một chén nước trà mà đầu lưỡi rất tinh của ông phải nhận là thơm ngon, ông càng chèo kéo ồn mãi lên.
Cô Phương cũng phải phì cười và làm cho ông Đầu Xứ Anh cười luôn thể. Con người nào đã biết e dè với cuộc sống, những lúc cảnh ngộ tinh thần sớm không cho mình phỉ sức hưởng thụ khi ở vào một cải tuổi ăn và ngủ đàng lẽ phải nhiều mỗi lần được vui cười trên mặt, thì cái cười ấy thật là thoả đáng, thật là đầy đủ và lại xinh đẹp là khác nữa. Nhân một cái vui tươi thế cho nét mặt nghiêm trang luôn luôn của ông Ðầu Xứ Anh, cô Phương nói một câu mà sự thân mật riêng tây đã không cần âm thầm nữa:
– Khoa Ngọ này là khoa cuối cùng, ông Đầu Xứ nên giữ mình làm trọng, chớ có đau bụng như kì năm Mão mà để thiệt thòi nhiều cho vùng Sơn Nam hạ lắm đấy, ông ạ.
Ðến chữ “ông ạ” ở cuối một câu nói, giọng rất thành thật cảm động, cô hàng sách có làm ra giọng bông lơn cho nó nhẹ bớt sự tha thiết của một câu nói đã lỡ nhời, đã thốt ra từ đáy một tấm lòng để đi sát vào một tấm lòng khác, bấy nay cũng vẫn chờ lúc được đãi đằng. Sự rất hữu tình mà cố làm ra vô tình bằng một cái giọng cố gò lấy, làm sao cho tránh khỏi sự nhận xét thông minh của ông Đầu Xứ Anh được. Ông biết lắm. Ông hiểu cô Phương để ý đến ông lắm. Không cần các bạn nói cho hay, không cần gặp gỡ, không cần âm tín tiêu hao, ba năm nay rồi, linh tính bảo cho ông biết thế. Nhưng từ ngày vấp ngay khoa thi đầu tiên, ở một kì đệ nhất, ông buồn uất vô hạn khi nhận thấy mình ra có còn lều chõng nữa cũng là chỉ đế lảm sống dậy, trong vòng oan trái, một cái oán cừu xưa cũ của ông cha di lại.
Một cái oan hồn đã hiện lên để phá hại, đã ốp đồng vào miệng người sống để thốt ra toàn những lời hằn bọc, cái oan hồn ấy không chịu buông tha ai bao giờ. Hoá cho nên, rớt khoa Ất Mão ngay kì kinh nghĩa, ông nhận luôn cho nó là khoa cuối cùng, chẳng cần phải đợi đến khoa Mậu Ngọ cuối cùng này. Ngay dạo ấy, ông nói rất to rằng ông là thí sinh của một khoa thi thôi. Cô hàng sách không rõ, vẫn tưởng ông còn có bụng với sự lều chõng.
Ngắm kĩ cô Phương, ông thấy cái đẹp của cô già dặn hơn ngày năm trước. Muốn nói thêm vài ý nghĩ vui tươi nữa vào việc đánh giá cái đẹp, ông Đầu Xứ Anh bỗng ngừng lại. Bởi vì, – quái, sao mãi đến giờ ông mới nhớ nhận ra – khuôn mặt cô Phương cũng hao hao tợ như diện mạo người đàn bà ẵm con, xoã tóc ngồi rú kêu than nơi đầu chiếc chõng tre ở trong trường thi khoa nọ. Tự nhiên ông thấy cô Phương không hiền hậu nữa. Ông nghĩ đến những cái ghê sợ mà một cái sắc đẹp có thể giấu dưới nụ cười. Ông nghĩ đến những truyện ma quái lúc thay hình biến thể khi muốn hãm hại đám học trò. Ông nhớ lại cái cười gằn của oan hồn khi hiện thành người, quất đuôi tóc trần vào mặt ông cho ông hôn mê đi và cầm nghiên mực đổ chan hoà xuống quyển thi. Cái oan hồn ấy đã lên tiếng nói, thề quyết làm cho người sống phải lụn bại mới nghe. Biết đến lúc nào cái người nàng hầu cụ Huấn mới nguôi giận và cái âm oán kia hết theo vết ông. Chuyện cũ của cha hồi sinh thời đi lại với người ta thật ông cũng chưa rõ hẳn đầu cuối như thế nào.
– Vâng, nhà có thứ mực Kiêu Kỵ đấy ạ, cô Phương nhanh nhảu trả lời ông Đầu Xứ Em.
Choàng tỉnh cơn suy nghĩ, ông đã vội bắt lấy việc mua mực khuyên em không nên lấy mực Kiêu Kỵ:
– Ði thi không ai dùng mực Kiêu Kỵ. Mực của xã Kiêu Kỵ chế rất tốt, chỉ hiềm mỗi khi viết xuống giấy, nó cắn bền chắc quá, khó tẩy đi lắm. Cô lấy cho mấy thoi Hoàng Tam Sương – vâng, nếu hết thứ chữ vàng rồi, cô cho thứ chữ bạc cũng được. Cái thứ mực hiệu Diệu Tự, “nhà ta” bán có được chạy lắm không hả cô?
Chà, người ăn nói sao mà xuôi tai dễ nghe đến thế. Cô Phương nhìn ông Đầu Xứ Anh, nhẩm trong óc mấy chữ “nhà ta”, tưởng đến cái ngây thơ của một đôi vợ chồng son kia trong lúc bù khú, chỉ mảnh trăng của cả thiên hạ mà nhận là của riêng của “nhà ta”, cô vui lòng quá, suýt quên cả việc soạn thoi mực cho khách.
– Cô cho tôi luôn thể ít chục tờ giấy lệnh nữa.
– Mấy chục tờ ạ?
– Cô đợi cho tôi tính xem dùng hết độ ngần nào thì không là thừa phí.
Làm ra bộ thông thạo thì ít, mà muốn tỏ sự thân mật thì nhiều – bao giờ được nên thân tình nữa nhỉ? – cô Phương co tay tính nhầm những cái gì, rồi cô ngấc đầu, vuốt mái tóc, nói với ông Đầu Xứ Em, giọng nhẻ nhót rất tự nhiên:
– Nộp ba quyển, kì đệ nhất, kinh nghĩa một quyền bảy tờ; kì đệ nhị thơ phú, một quyển sáu tờ và kì đệ tam, văn sách, một quyển mười bai tờ nữa, có dày lắm cũng chỉ đến mười bốn tờ là cùng. Ông định mua trữ giấy mang vào trường đề phòng những lúc phải cánh quyền hoặc đổi những trang hư hỏng, chỉ nên trữ lấy từng kì một.
Ông Đầu Xứ Anh vừa soi giấy lệnh vừa hỏi:
– Tại sao thế hở cô?
– Thưa, tại… tại là giấy chuyến này, thú thật với hai ông rằng không được mịn mặt lắm. Chuyến sau, có thuyền hàng phường neo về, thế nào cũng có giấy tốt hơn nhiều. Có lẽ kịp kì đệ nhị của các ông đấy. Để tôi xem nào.
Cô hàng sách, bán giấy bút cho học trò trường Nam đã mười năm cỏ lẻ, đã không phụ cái tiếng là một người thông thuộc những phong tục trường ốc. Cô Phương lại co tay tính nhẩm một hồi:
– Được rồi. Mồng một tháng mười là ngày vào kì đệ nhất. Có chóng lắm thì cũng phải hết cữ thượng tuần tháng mười mới có bảng vào kì đệ nhị. Phường giấy của tôi thế nào cũng có thuyền về bên trên mỏm sông trước ngày mồng mười. Đúng hôm tết trùng thập cúng cơm mời, các ông lại đây mua mở hàng cho kiện giấy lệnh Bưởi. Giờ các ông lấy tạm ít chục tờ dùng đỡ trong kì đệ nhất vậy.
Cô đếm giấy, thổi những tờ giấy chập đôi với cái nâng niu nhẹ nhàng của một người chị cả săn sóc đứa em thơ lúc mẹ già đi chợ chiều xa, chỉ có những người đàn bà đẹp và phúc hậu thì mới thổi được giấy như thế thôi. Cô đếm thành hai xấp, mỗi xấp đâu hai chục tờ, đùn một xấp vào phía ông Ðầu Xứ Em, còn cái xấp thứ nhì là lấy sau ở trong ruột tệp khác, cô trao tận tay ông Ðầu Xứ Anh, cặp mắt tình tứ linh động như muốn nhắc ông rằng cái xấp sau đây tốt hơn xấp trước và sự chênh lệch này trong lúc soạn giấy không phải là do ngẫu nhiên. Ra chiều tin chắc vào cái tài và cái may của hai anh em ông Đầu Xứ thi khoa này, cô hàng sách vẫn lấy cái cười duyên dọn đường cho một câu nói mà ở một cái miệng khác thì phải là thiếu lễ phép.
– Cánh quyền mà dùng bấy nhiêu giấy là nhiều quá lắm rồi đó. Phải thay quyển, đổi quyển đến quá ngữ giấy này, thì chỉ còn có ngồi mà lắng nghe ba hồi chín tiếng trống ngoại hạn…
Lúc ra về, ông Đầu Xứ Anh, trong một phút sầu hận, đã muốn trả lại cô Phương tập giấy, để thầm bảo cho cô hay rằng cô đã làm một việc thừa, riêng đối với ông, khoa Ngọ này ông có dự thi đâu.
…Mấy bữa nay mưa gió càng nhiều. Nước trên trút xuống, nước ở dưới dâng lên, người thu và cảnh ẩm sống trong một bầu không khí nồm lo lắng. Ngày ngày trăm nhà vùng Sơn Nam hạ lại nhận thêm lấy một cái tin đê vỡ tại đất Kinh Bắc.
Nằm nghe mưa rơi trên quán trọ xóm Cửa Trường, một đêm nguyệt tận năm Ngọ, từ tối đến giờ, ông Đầu Xứ Anh chỉ những hết lo xa rồi lại nghĩ gần. Trong một lúc mơ hoảng, ông lại trông thấy bóng cái người đàn bà mặc đồ trắng, xoã tóc, kiễng gót, thu một đứa trẻ con vào tà ào sổ gấu, đi tuột vào phía nhà cầu, ông ú ớ như người bị ma mộc đè, cố gắng mà không kiễng mình dậy được. Cái người đàn bà mặc đồ trắng, chân không sát đất, lại lẻn trở ra và, khi lướt qua mặt ông, cười gằn một tiếng, lấy tà áo quất vào má ông, buốt dức và giá lạnh như chưa bao giờ cảm thấy.
– Anh nói mê những gì thế?
Ông Đầu Xứ Em lác mãi, ông mới hoàn hồn, nhìn em một lúc lâu rồi hỏi:
– Chú đã soạn sửa lều chõng đủ rồi?
Trống đêm cuối thu và đông non điểm bốn tiếng đục. Uống hết một nai rượu để ngự hàn và khu phong mà nhà trọ đã dọn sẵn từ khuya, ông Đầu Xứ Anh bỏ thêm một đinh vàng lá vào tráp cua em:
– Khi nào thấy “khang khác” trong trường thi, chú đốt vàng cho nhiều vào. Thôi ta đi đi. Anh đưa chú vào đến cửa trường. Đưa tôi cải bộ gọng lều và chõng. Chú đeo lẩy ống quyển và tráp. Ði đôi tất vào.
Ðêm mưa dầm vẫn tối như bưng lấy mắt. Hai cái tài hoa anh em kia, cộng lại không được bốn mươi nhăm tuổi đầu, bì bõm dắt nhau đi về phía cửa trường thi. Có tầm mưa gió và đi đêm như thế này, người ta mới thấy bước công danh là mệt và chán, giá cô Phương hàng giấy có đứng đây mà nhìn này! Ông Ðầu Xứ Anh bĩu môi. Trong tối tăm, tiếng thở dài người anh dẫn lối cho người em cứ lặng thinh bước từng bước một.
Bãi trường thi thấp hơn mặt nền tỉnh, nước mưa lụt dồn về, chôn ngập lút cả ngọn cỏ may. Đứng xa trông những cây đình liệu rọi trên bãi cỏ xâm xấp nước, người vô sự và không có chữ tưởng đâu như dân cả một làng nào đang đốt đuốc bắt ếch. Càng tiến gần lại trường, người ta có nhưng cảm tưởng rùng rợn như khi chịu bó tay đứng nhìn một đám cướp lớn bật hồng phá nhà lấy của trên xóm trên, trong những ngày lụt lội ở xứ bị thuỷ tai, quân cướp toàn đi bằng thuyền. Cái tiếng mắt nứa nổ to ở cây đình liệu cháy sắng, có khác gì cái tiếng đốt ống lệnh bật hồng của phường đạo tặc, lúc quân hồi vô lệnh.
…Ông Đề Điệu đã leo lên ghế chéo. Một người lính thể sát bắc ống loa, hô:
– Báo oán giả tiên nhập
– Báo ân giả thứ nhập
– Sĩ tử thứ thứ nh… ập.
Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh. Ông Đầu Xứ Anh nghe tiếng hô, mặt nhợt nhạt, luôn luôn nhìn trộm em. Người em bây giờ chỉ là một thân cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào đấy biết đến bao nhiêu thứ múi dây lòng thòng: dây lều, dây chõng, dây buộc bộ gọng ống quyển… Cùng với ngàn ngàn người khác, hai anh em đứng nghểnh mãi cổ lên, kiễng mãi người lên như muốn nhìn rõ mặt người lại phòng xướng danh. Đã lâu chôn chân xuống bãi sũng nước, lòng dạ người người đều bàng hoàng. Bỗng ông Đầu Xứ Anh dun mạnh người em:
– Kìa… làng Cổ Nguyệt! Tên chú! Vào đi.
Trời sáng tỏ đã từ lâu. Cái hàng rào sĩ tử có dủ các hạng tuổi từ một cái đầu xanh mặt trắng cho đến một chòm tóc bạc, một lớp da mồi đã bị xé thủng. Ông Đầu Xứ Em lách mình qua rồi, nhưng lều chõng còn vưởng mắc nên lỗ thủng ấy chưa kịp hàn kín. Nhôn nhao một lúc lâu, cái bể người, đã lấp được chỗ trống của một con sông người tràn đi, lại bằng phẳng như cũ để chờ đợi một cái đổi dời khác.
Ông Đầu Xứ Anh ra về, chỉ hận rằng lúc tới tấp, quên không dặn lại em nên đốt một lúc cho hết đinh vàng lá trong tráp nếu trong trường có thấy “cái gì khang khác”. Dọc đường, ông gặp một toán lính thanh khoá đội nón đĩa, nai nịt súng ống gọn ghẽ. Người ta bảo đấy là bọn lính nhà nước phái thêm vào trường giữ trật tự.
…Ông Ðầu Xứ Em dựng lều, dọn chỗ ngồi thi giữa sự dằn dỗi của trời đất. Mưa to gió lộng trên một trường thi. Cứ thế mãi mãi, cho đến qua giờ ngọ, cho đến quá giờ mùi. Vậy mà xưa nay người ta vẫn bảo mưa không quá ngọ gió không quá mùi. Sĩ tử khắp bốn vi giáp ất tả hữu, co ro trong lều dột, thật là coi tính mệnh mình không bằng một quyển thi chỉ luôn luôn muốn những chuyện tì ố. Chốc chốc cái loa đồng ngoài cửa trường lại kêu inh ỏi gọi các tư gia ai có thùng gỗ hay thùng sắt tây thì cho đem vào trường bán cho học trò kê quyển viết và độn thêm lên chõng ngồi.
Cái bản giáp bài viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động đặt ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tì vị. Ông cựa quậy nhiều lắm, vừa ôm bụng vừa giữ ống quyển. Cái chõng tre đặt trên bãi cỏ ngập, lủn xuống lần lần. Giữa hai cơn đau bụng, những lúc trời ngớt mưa, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng kêu nài: “Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em đổi quyển. Trời mưa ướt lắm, anh em có muốn như thế làm gì…”
Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một, xếp ngay ở đầu mép chõng, một tay chận cơn đau nơi bụng dưới, một tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hoá bùng bùng, lửa kêu vù vù và trong tiếng ngọn lửa reo, lại có tiếng người nói cười lanh lảnh. Khói bốc lên, tỏa xuống soai soải, Như những vệt nước thời gian trượt trên đầu ngọn tường xuống lần vách gạch những đền chùa xưa cũ có mốc vẽ hình, có rêu phong dấu. Những vờn khỏi nhẹ đã đổ xuống nhanh đổi màu rất mau chóng.
Trước mắt ông Đầu Xứ Em mê mệt và hoảng hốt, những vờn khỏi – thoảng mùi gây gây khét và tanh lợm – bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xoã và mớ tóc u hiển không chờ đợi ấy đóng khung lấy một khuôn mặt người. Lửa vàng gần lụn, vụt bùng lên và tiếng cười lanh lảnh trở nên the thé, rồi nấc lên mãi. Trời đất tối sầm xuống. Ông Ðầu Xứ Em cảm thấy bãi trường là thừa lạnh lẽo. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió thổi bốc khỏi mặt tráp. Nhưng ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã. Cơn đau bụng nổi lên dữ dội hơn hết những giờ phút vừa qua. Ông gục xuống tráp, thiếp dần.
Ông tỉnh giấc, thấy trong người nhẹ hẳn, tưởng chừng như cơn đau dữ dội ban nãy chỉ là một cơn ác mộng. Ông bỡ ngỡ, mất hết cả ý thức về thời gian và không gian. Ông ngơ ngác trước hoàng hôn. Từ một chòi nào, người ta đã điểm mau hồi trống ngoại hạn.
Ông Ðầu Xứ Anh ra đón ở cửa trường. Bỏ lại cả lều và chõng, cầm chỉ vỏn vẹn có một bản giáp ông Ðầu Xứ Em đã rời bước trong một giấc mơ.
Hai anh em gặp nhau, lẳng lặng không nói một câu nào suốt từ cửa trường về đến nhà trọ.
Bửa cơm ấy, tại nhà trọ bà Phùng có một người hỏng thi đã uống hết ba bình rượu cúc… vào một đêm dài nhất trong một đời người./.