Những nữ chiến sĩ Trường Sơn năm xưa, nay đều ngoài cao tuổi nhưng họ mặc quân phục, tụ hội bên nhau trong một ngày đặc biệt, hát cho nhau nghe, và cùng sống lại ký ức của một thời không thể nào quên trên đường Trường Sơn.
Họ xứng đáng là những niềm kiểu hãnh nhất của đất nước trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Sáng nay 16-5, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam lại phối hợp với Hội nữ chiến sĩ Trường Sơn mở một triển lãm khai thác riêng hình ảnh, câu chuyện về những nữ bộ đội, thanh niên xung phong – những người phụ nữ đáng kiêu hành nhất.
Triển lãm có tên Kiêu hãnh Trường Sơn, kéo dài đến hết ngày 15-7, nhân kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh – Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (1959 – 2019).
Với 3 chủ đề trưng bày: Dấu ấn một huyền thoại, Những bông hồng thép, Phía sau cuộc chiến… triển lãm tái hiện lịch sử một con đường huyền thoại bằng chính những sự can đảm, bền bỉ, khát vọng và cả những hồn nhiên đời thường của “những bông hồng thép” đã sống, chiến đấu và hi sinh cho con đường huyết mạch – con đường quyết thắng này.
Không chỉ có những hình ảnh mà triển lãm công phu này còn mang đến những câu chuyện của quá khứ và cả hiện tại, do chính những cô gái trên tuyến đường Trường Sơn kể.
Những câu chuyện về những cuộc đời oanh liệt mà thầm lặng ấy mang đến cho người xem nhiều xúc cảm từ tự hào, kiểu hãnh về “những huyền thoại của huyền thoại” (như cách gọi của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên) cho tới những day dứt khôn nguôi…
Ở đó, công chúng được thấy những câu chuyện can trường của phụ nữ Việt Nam giữa bom đạn tàn khốc trong rừng Trường Sơn và cả những nỗi lòng, những niềm riêng rất đời thường của những người con gái trẻ dấn thân vào chốn khốc liệt nhất.
Giữa núi rừng Trường Sơn, người ta tìm thấy những bông hồng thép như chị Nguyễn Thị Huấn – C2 Tiểu đoàn 232 Cục Hậu cần Quân Khu V.
Mỗi năm chị gùi khoảng 20 tấn hàng, gấp gần 3 lần khối lượng trung bình của đồng đội nên khi mới 17,18 tuổi chị đã được phong danh hiệu kiện tướng “Chân đồng vai sắt”.
Hay chị Hồ Kan Lịch người Pa-kô tỉnh Thừa Thiên, 18 tuổi phụ trách đội du kích nữ kiêm huyện đội phó A Lưới.
Năm 1968, chị được đi dự Đại hội “Anh hùng chiến sỹ thi đua toàn quốc”; với thành tích chiến đấu 49 trận, diệt 150 tên địch, bắn rơi một chiếc máy bay Đa-kô-ta của Mỹ, 7 lần được gặp Bác Hồ và là người phụ nữ dân tộc thiểu số đầu tiên được phong danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.
Đó là câu chuyện về Tiểu đoàn vận tải 232 còn gọi là “Tiểu đoàn bà Thao” anh hùng, gồm hơn 600 cô gái tuổi 18, đôi mươi được thành lập năm 1967 có nhiệm vụ: gùi lương, tải đạn, cõng thương binh, mở đường, chống lầy cho xe qua.
Qua 4 năm, tiểu đoàn chuyển được 5.019 tấn hàng, mỗi chị em bình quân đã tải hàng trên tuyến đường dài 600km.
Và đội nữ lái xe Nguyễn Thị Hạnh thành lập tháng 12-1967, gồm 40 cô gái có nhiệm vụ vận chuyển khí tài, đạn dược trên tuyến đường dài hơn 100km từ Khe Tang (Hà Tĩnh) theo đường 15 vào Đá Đẽo, Xuân Sơn (Quảng Bình) và từ Khe Ve (Quảng Bình) theo đường 12, qua Cổng Trời, Cha Lo (Quảng Bình) dài hơn 60km cheo leo, hiểm trở bị địch đánh phá ngày đêm. Một điều kì diệu là không một nữ lái xe nào hi sinh trong chiến trường.
Tháng 2-1972, cả đội được điều chuyển về trường lái xe D255 làm giáo viên dạy lái xe cho học viên nữ và trở thành Đại đội nữ lái xe Trường Sơn với phiên hiệu C13.
Đường Trường Sơn huyền thoại còn giấu trong nó những câu chuyện vừa đời thường lại vừa nhân văn của những người phụ nữ phi thường.
Ở đó, theo lời kể của bà Lê Thị Phương Thảo: nước không đủ dùng, nhất là vào mùa khô.
Còn mùa mưa quần áo không thể khô, khiến chị em bị ghẻ lở, hắc lào quanh năm. Nguồn nước thì bị nhiễm chất độc Mỹ rải xuống nên họ đều mắc bệnh phụ khoa, rồi bị sốt rét khiến cho da xanh tái còn mái tóc thì rụng gần hết.
Nhưng giữa chốn sinh tử ấy, tình đồng đội luôn là điều đẹp đẽ nhất. Họ chia sẻ nhau từng ngụm nước mát khi khát, chiến sĩ nữ thì giúp chiến sĩ nam may vá còn các đồng đội nam thì luôn hạnh phúc kiếm bồ kết làm quà tặng cho các chị em gội đầu.
Chị Lê Hồng Huân, Trung đoàn 245, Tổng cục Hậu cần kể: “Ngày ấy ở chiến trường tất cả đều gọi nhau là đồng chí. Tình cảm đồng chí, đồng đội là nguồn cổ vũ, động viên nhau, nó là cảm xúc giúp cho chúng tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nhiều lúc có chị em hát hò động viên khiến bước chân của chúng tôi khi hành quân ra trận cũng trở nên nhẹ nhàng, tâm hồn người lính cảm thấy vui, thanh thản lắm. Cánh lái xe mỗi lần ra Bắc nhận hàng đi qua các miền quê đều ghé tìm kiếm bồ kết làm quà tặng cho chị em gội đầu”.
Câu chuyện của bà Nguyễn Thị Tý sau chiến tranh cũng là một câu chuyện xúc động tại triển lãm.
Tham gia chiến tranh, bị nhiễm chất độc da cảm nên bà Tý không thể sinh con. Thương người bạn đời cũng là một đồng đội mà bà đã nên duyên từ khi còn ở chiến trường, bà Tý đã thuyết phục người yêu của mình đi lấy vợ khác. Điều kỳ lạ là người vợ mới luôn coi bà Tý như chị gái và tất cả các con riêng của chồng đều gọi bà Tý là mẹ, một trong số họ còn sống với bà tý từ nhỏ cho tới ngày nay.
Những bông hồng thép xinh đẹp và can trường trong rừng Trường Sơn ngày ấy:
Và bây giờ: