Tráng sĩ nghèo và giai nhân tuyệt sắc

0
1984

Nét Đẹp Đông Phương

Tráng sĩ nghèo và giai nhân tuyệt sắc

-Quảng Cáo-

CHÀNG nghèo thật hết chỗ nói, cả sự nghiệp của chàng chỉ có một bà mẹ già mà thôi.

Lâu lắm người ta mới biếu cho chàng một cái búa để đền ơn cứu sống một em bé chết đuối.

Được búa, chàng đưa mẹ vào núi, tìm một hang đá, chàng lót rơm êm và có gió mát để mẹ ở; như thế thật là an tâm. Ngày ngày đi kiếm củi về chợ đổi gạo. Tu-Lại (tên chàng) chẳng những lan rộng với chữ hiếu, mà người ta còn gọi là Tráng-sĩ, vì chàng thường giúp đỡ nhân dân trong vùng ấy. Bất luận gặp một tai nạn gì chàng thường giúp đỡ họ tận lực.

Vì Tu-Lại ở núi, nên người ta đặt chàng những món tiền lớn để bắt các thú rừng hiền lành như: nai, khỉ, chồn, thỏ v.v… Tu-Lại từ chối, vì anh là một Phật-tử chân chánh không bao giờ sát một sanh vật nào dù nhỏ. Chẳng những chàng không bắt chúng mà còn yêu mến chúng nữa, nên lâu ngày chúng quen và thường đến gần hai mẹ con chàng ở.

Những đêm trăng sáng mẹ niệm Phật, chàng ngồi một bên, kết mấy thứ cỏ khô làm thành áo để mặc mùa đông.

Nhưng đã 6 ngày nay, trời mưa luôn không ngớt, gạo trong hang đã hầu cạn. Chàng lo ngại nếu mưa cứ kéo dài. Sáng nay trời bừng sáng, Tu-Lại sung sướng quá, anh chào mẹ rồi vác búa ra đi. Đến chỗ thường đốn củi, thì xa xa có bóng 3 người thiếu nữ. Thấy có người, ba bóng kia bỏ đi nơi khác. Chàng để bầu nước xuống và sửa soạn vào việc, thì ồ lạ thật, một chiếc kim thoa óng ánh nằm ngả nghiêng bên tảng đá.

Không còn nghi gì nữa, Tu-lại vội nhặt lấy, rồi chạy theo 3 thiếu nữ kia trả lại cho họ. Người ta nhìn chàng với cặp mắt cảm trọng. Không thể trả ơn người Tráng-sĩ bằng tiền bạc được, vì người ta biết tiếng chàng nhiều lắm. Nhưng từ độ ấy đến sau, nơi hang mẹ chàng thỉnh thoảng có người đem biếu gạo trắng và thịt ngon, trong lúc chàng đi làm củi vắng. Cứ thế rồi một ngày kia…

Một sáng mai kia, chàng còn mơ màng chưa tỉnh hẳn, thì có một nàng tiên ngồi một bên chàng, nàng tiên ấy trên trời sa xuống lâu mau không biết, hồi nào không hay, nhưng nàng là tiên thật, vì nàng đẹp quá. Một tấm Voan màu nước biển phủ nhẹ toàn thân, trên mái tóc xanh là một tràng hoa tươi. Chàng ngượng ngùng với bộ áo vô cùng sơ sài của mình. Tu-Lại ngồi phắt dậy :

– Nàng là ai? Sao lại đến đây?

– Thiếp là sương phụ đánh rơi chiếc kim thoa hôm nọ, được tráng sĩ cho lại. Về nhà thiếp suy nghĩ: ở đời sang giàu không phải là chơn hạnh phúc, được gần bậc hiền nhân, mới chắc chắn sống một lối sống của con người biết sống ! Thiếp nay giàu có, của cải dư dật, cha mẹ không, chồng chết, thiếp chỉ có 2 con thơ. Nay thiếp đến đây nguyện theo chàng, mong người đừng phụ. Thiếp xin thay chàng hầu hạ mẹ già và giúp chàng học hành để thành danh đức, hầu sau làm lợi ích cho đời. Nếu chàng cố chấp không nghe, thiếp rất tiếc tài ba đức độ của chàng vùi sâu trong hang thẳm.

Tiếng nàng trong và êm quá. Trong như tiếng suối chảy. Êm như tiếng chim kêu. Nàng nói với một vẻ thiết tha thành thật.

Câu chuyện mới cắc cớ làm sao, mỗi lời nói của nàng như rót vào tai người tráng sĩ.

Tu-Lại mơ màng như người trong mộng. Chàng suy nghĩ không biết là chiêm bao hay thật ? Mà nàng là người thật ? Hay ma ? Bỗng chàng nghiêm nét mặt và bảo:

– Tôi xem nàng là người đoan chánh lại giàu sang là do phước báo của nàng đời trước đã gây nhơn tốt nhiều. Còn tôi chỉ là một kẻ nghèo khổ, làm sao xứng đáng với nàng? Và theo tôi, một người sương phụ cần phải thờ chồng, nuôi con, dạy vẽ cho con nên người, xứng với ý nghĩa con người mới phải. Thiết thật hơn, tôi nay còn mẹ già, nếu tôi lập gia đình, thì tình yêu mẹ sẽ san sớt. Nàng còn có con thơ, nếu nàng lập gia đình, tình yêu con sẽ không còn nguyên vẹn. Mẹ tôi cần có tôi mới vui. Con nàng phải có nàng mới sống. Như vậy tôi khuyên nàng nên trở về nuôi con và dứt bỏ câu chuyện này. Còn nàng sợ đức độ tài ba của tôi sẽ mai một, nếu tôi quả có đức độ như nàng tặng, thì trong rừng sâu các loài cầm thú cũng cần phải có đức độ để che chở cho chúng. Như thế có đức độ thì ở đâu mà lại không dùng được?

Nàng tiên ấy bay đi, trời đang sáng bỗng tối hẳn, người tráng sĩ cũng thấy nao nao trong lòng, nhưng rồi chàng lại vui lên liền vì chàng đã chiến thắng. Song không hiểu vì sao, những chuyện lạ kỳ lại hay đến với người nghèo lạ ấy.

Một hôm, có một người lạ mặt hốt hoảng chạy đến, lòi ra một thỏi vàng thắm thưa với Tu-Lại:

– Thưa Tráng-sĩ, tôi xin dâng chút quà mọn nầy, nhờ tráng-sĩ giúp tôi một lời nói. Ngày mai đây, nếu có ai đến hỏi: “có một đoàn người đi ngang qua đây không?” thì xin tráng-sĩ nói cho một tiếng ‘có’, ở đây chỉ có tráng-sĩ và tôi, ngoài ra không còn ai hay chuyện này cả, vả lại tráng-sĩ chỉ nói cho một tiếng cũng không sao.

Nói xong, người ấy bỏ vàng lại đó, rồi chạy mất. Tu-Lại chưa kịp suy nghĩ gì cả, nhưng chàng vội lượm vàng rồi chạy theo thật nhanh mới kịp. Tu-Lại kéo tay người kia:

– Không, không, vàng ông hãy cầm lấy, tôi không thể theo lời ông được. Tôi là một Phật-tử, không bao giờ tôi làm việc ám muội. Một lời nói của người quân-tử trọng hơn nghìn vàng. Nhưng một lời nói của Phật-tử còn trọng hơn cả thân mạng. Nếu ông đem nghìn vàng hay dùng uy thế hại đến mạng tôi bảo tôi nói dối, thà chết chớ tôi không bao giờ phạm cấm giới của Đức Phật.

Nói xong Tu-Lại bỏ vàng rồi chạy thẳng.

Tiếng tốt của người tráng-sĩ bay xa như ngọn gió mát, vô tình thổi từ rừng sâu đến thâm cung. A-Dục-Vương là người hiếu kỳ, muốn thử chàng nên những chuyện bỏ rơi kim thoa, người con gái đến tận hang chàng ở chính là cung-nhơn của vua A-Dục và người đem vàng đến bảo chàng nói dối cũng là mưu của A-Dục-Vương.

Sau mấy lần thử thách, nhà vua biết Tu-Lại là bậc hiền nhân, bỗng đem lòng đố kỵ sai người đến hại chàng:

– Tôi vâng lệnh nhà vua đến giết tráng-sĩ.

Người đao phủ tay cầm gươm bén bảo thế.

– Ồ thế thì tốt quá, tôi rất cám ơn Ngài đã vì tôi mà hủy giùm cái thân ô uế đầy tội lỗi này. Song tôi còn chút mẹ già nhờ ngài chiếu cố cho…

Tên đao phủ ngạc nhiên trước thái độ thản nhiên của Tu-Lại:

– Ông là người vô tội, nhà vua vì lòng đố kỵ sai tôi đến hại ông, vậy ông không giận nhà vua sao?

– Không, tôi không giận mà còn thương hại nhà vua đã gây nhiều nghiệp ác. Trước khi chết tôi xin cầu Đức Phật cho nhà vua phát bồ đề tâm hồi hướng thiện niệm.

Tên đao phủ mím môi đỏ mặt đưa gươm lên cao xán xuống đầu chàng… nhưng lưỡi gươm kia xuống từ từ rồi chui thẳng vào vỏ kiếm…

Sáng hôm sau, vua A-Dục lên tận hang chàng, gặp lúc chàng đã đi làm củi sớm, vua chờ trọn ngày mới gặp. Vua A-Dục mừng rỡ từ tốn bảo: Trẫm làm vua, trong nước có hiền tài mà Trẫm biết chậm, thật đáng tiếc! Ngày nay nước nhà loạn lạc, Trẫm mong Tráng-sĩ về triều cùng Trẫm chăm lo việc nước. Được vậy thật là hạnh phúc cho nhân dân.

Chàng chối từ năm bảy dạo, Vua nài nỉ đôi ba phen, cuối cùng chàng hẹn trong 7 ngày sẽ trả lời.

Trong 7 ngày, 3 lần vua đến, 3 lần vua cho người lên thăm. Tu-Lại  hỏi ý kiến mẹ, mẹ chàng bảo :

– Hiện nay, mẹ nghe trong nước nhà vua thì lãng-mạn hoang hung, hà khắc dân tình, nhân dân oán thán, đến nỗi họ đặt tên vua là “Chiên–đà-la A-Dục” (ông vua hung tợn như kẻ hàng thịt). Triều-đình nhiều nịnh thần ô lại, ngoài thì cha hung tàn, con ngỗ nghịch, vợ bất chánh, chồng bất lương…, đạo đức hầu mất hẳn, tất cả tâm niệm xấu xa độc ác hợp lại, do đó mà giặc cướp nổi lung-tung. Con nay chấp kinh cũng phải tùng quyền, vậy nhân cơ hội này, con có dịp đem Giáo Pháp của Đức Phật để cảm hóa quần sanh, hầu mong cứu vãn nhơn tâm, đưa lại sự an ninh cho nhân-loại.

Vâng lời mẹ, Tu-Lại về triều. Vua A-Dục lấy hai chữ Quốc-Bửu (vật quí của nước) tặng chàng làm tên.

Trước hết Quốc-Bửu đem ba pháp Quy-y, 5 điều cấm giới cảm hóa vua. Vua A-Dục từ khi biết quy đầu về Phật, không bao lâu trở thành một vị minh-quân, Ông đổi hẳn chính sách, lấy đức độ trị dân, không dùng oai thế tàn bạo như trước nữa. Vì thế mà nhân dân trong nước trở lại cảm phục vua. Từ đó họ đặt tên nhà vua là “Thích-Ca A-Dục” (ông vua hay làm điều nhơn từ).

Trong nước, nhà vua trọng thưởng người hiền hiếu, trừng trị kẻ hoang dâm, cấm hẳn sự xa hoa cờ bạc, săn bắn, triệt để không rượu chè đàng điếm, người già cả bệnh hoạn được săn sóc chu đáo, nhà nhà đều thờ Phật trọng Tăng, tu pháp Thập-thiện. Nếu ai phạm một trong 5 điều răn, phải bị trục xuất ra khỏi nước. Nhờ vậy, không bao lâu nước nhà trở lại thái bình an lạc.

Đốt nén hương lòng, ta ngồi yên tịnh đọc bài Kinh đây của Đức Thế Tôn dạy. Ta mới thấy, đứng về phương diện nhân-thừa, Đạo Phật không nói gì xa xôi cả, một người muốn xứng đáng ý nghĩa của con người, chỉ cần yếu giữ gìn năm điều cấm giới. Ta xem như Quốc-Bửu là một người nghèo xác nghèo xơ, mà chàng cảm hóa được nhà vua, xoay chuyển được lòng dân một nước. Quốc-Bửu không có oai thế, không có tài sản, chàng chỉ dùng đức độ mà cảm hóa quần chúng. Như thế ta đủ thấy giá trị con người không phải nơi giai cấp mà cốt ở nơi tư cách. Song muốn đủ tư cách của một con người, không chi hơn là dùng tinh-thần Từ-binăm điều cấm giới của Phật đã dạy, làm kim chỉ – nam để đi đến một cuộc đời tươi đẹp.

Đức Phật dạy: “Hỡi các con ! Hãy tỉnh dậy! Hướng về lẽ phải, dẹp bỏ lòng dục vọng, giữ gìn 5 điều cấm giới. Đừng nói chi xa xôi, chỉ có vậy thôi, cũng đủ làm cho các con sung sướng và đời các con tươi đẹp”.

Phỏng dịch trong Đại-Tạng Kinh

Thích nữ Thể-Quán

guest
(*) Thông tin bắt buộc phải điền
(*) Thông tin bắt buộc phải điền
0 BÌNH LUẬN
Phản hồi
Xem tất cả bình luận